Quan sát dưới kính hiển vi điện tử, tế bào hồng cầu có hình dạng đĩa lõm hai mặt với đường kính khoảng 7,8 micromet, chỗ dày nhất khoảng 2,5 micromet và không quá 1 micromet ở trung tâm. Thể tích trung bình của hồng cầu khoảng 76 – 96 micromet3. Hồng cầu có khả năng biến dạng lớn, không bị rách hay vỡ khi di chuyển là nhờ lớp màng bọc dẻo dai bên ngoài.
Thành phần chính của hồng cầu là hemoglobin – protein giàu sắt tạo màu đỏ cho máu. Mỗi phân tử hemoglobin bao gồm 4 nguyên tử sắt, mỗi nguyên tử sắt sẽ liên kết với 1 phân tử oxy và 2 nguyên tử oxy. Hemoglobin chiếm khoảng 33% của 1 tế bào hồng cầu, có mật độ 14 g/dL ở nữ giới và 15,5 g/dL ở nam giới.
Giai đoạn phát triển từ tế bào tiền nguyên hồng cầu đến hồng cầu lưới diễn ra trong tuỷ xương. Tiếp theo hồng cầu lưới phóng thích ra máu ngoại vi từ 24 – 48 giờ thì mạng lưới biến mất và trở thành hồng cầu trưởng thành.
Hồng cầu có đời sống trung bình từ 90 – 120 ngày, mỗi ngày có đến 200 – 400 tỷ hồng cầu chết đi và bị tiêu hủy ở gan và lách, sau đó tủy xương sẽ tiết ra một đợt tế bào hồng cầu mới để thay thế và duy trì lượng hồng cầu đã mất trong cơ thể.
Người ta sử dụng chỉ số RBC (Red Blood Cell) khi xét nghiệm để tính toán số lượng hồng cầu trong máu. Bình thường, giá trị chỉ số RBC nằm trong khoảng từ 4,2 – 5,9 triệu tế bào/cm³. Giá trị chỉ số RBC thay đổi tùy theo đối tượng được xét nghiệm:
Chỉ số RBC giảm dưới chuẩn thường xuất hiện ở người già, phụ nữ mang thai, hoặc là dấu hiệu cho biết bệnh nhân bị thấp khớp cấp, suy tủy, thận và ung thư.
Mức hồng cầu bất thường có thể là dấu hiệu của tình trạng thiếu máu, mất nước, xuất huyết, các chứng rối loạn khác về hồng huyết cầu.
Thể tích trung bình của một hồng cầu (MCV)
Dùng để đánh giá kích thước hồng cầu: lớn, nhỏ hay bình thường. Giá trị bình thường của MCV từ 80 – 100 femtoliter (fl).
Nếu kết quả thấp hơn bình thường: định bệnh hồng cầu nhỏ, thường ở bệnh thiếu máu, Thalassemia, suy thận mạn tính, nhiễm độc chì.
Kết quả cao hơn bình thường: định bệnh hồng cầu to, thường gặp ở những người nghiện rượu, bệnh gan, suy giáp, thiếu hụt vitamin B12, thiếu acid folic, chứng tăng hồng cầu.
Lượng huyết sắc tố trung bình trong một hồng cầu (MCH)
Là chỉ số đánh giá màu sắc hồng cầu: màu đậm, lợt hay bình thường. Giá trị bình thường của chỉ số này từ 27 – 32 picogram (pg).
Nếu kết quả xét nghiệm nhỏ hơn bình thường là dấu hiệu của bệnh hồng cầu nhược sắc (lợt màu) hay gặp ở bệnh thiếu chất sắt, người mang gen Thalassemia…
Nếu kết quả cao hơn bình thường là dấu hiệu của bệnh hồng cầu ưu sắc (đậm màu), gặp ở những người nghiện rượu, bệnh lý gan, thiếu vitamin B12, acid folic…
Nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCHC)
Là chỉ số thể hiện nồng độ trung bình của huyết sắc tố trong một đơn vị thể tích máu, giá trị MCHC của người bình thường ở trong khoảng từ 32% – 36%.
Nếu kết quả xét nghiệm có chỉ số MCHC hỏ hơn 32% thì rất có thể bệnh nhân đã bị thiếu máu. Còn nếu kết quả lớn hơn 36% là dấu hiệu cơ thể có thể thiếu máu tăng sắc hồng cầu bình thường, do chứng hồng cầu hình tròn di truyền nặng…
Tế bào hồng cầu đóng vai trò vận chuyển oxy (O2) từ phổi đến các tế bào trong cơ thể đồng thời sẽ nhận lại khí cacbonic (CO2) từ các mô lên đào thải ở phổi (loại bỏ khí CO2). Chức năng của hồng cầu bao gồm:
Để sản sinh lượng hồng cầu cho các hoạt động của cơ thể, cần xây dựng chế độ ăn uống khoa học:
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh