ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh mộng thịt thường phổ biến ở các nước có khí hậu nóng ẩm, có nhiều ánh sáng mặt trời , nhiều gió bụi và thường ở độ tuổi lao động .Việt Nam, là nước có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, người lao động trong các ngành nghề nông, lâm , ngư nghiệp thường xuyên tiếp xúc với ánh nắng mặt trời còn khá cao (46,3 % năm 2014 ,giảm còn 35,3% năm 2019. Do vậy mộng thịt cũng là bệnh mắt khá phổ biến ở Việt nam. Mộng thịt làm ảnh hưởng đến chức năng thị giác và thẩm mỹ của người bệnh. Theo thống kê của Viện mắt Trung Ương năm 1996 tỷ lệ mộng thịt chiếm 5,24% trong tổng dân số điều tra. Theo điều tra của Hà Huy Tài (2004) ở tỉnh Hưng Yên tỷ lệ bị mộng thịt là 9,6% dân số. Hiện nay tỷ lệ mộng thịt từ 5% - 18%.
Mộng thịt ( tên tiếng anh là Pterygium) là một khối mô liên kết tăng sinh hình tam giác phát triển và đỉnh luôn hướng về phía giác mạc. Bệnh thường gặp ở vùng khe mi góc trong, có một tỷ lệ nhỏ ở góc ngoài của mắt. Bệnh có thể tiến triển chậm trong nhiều năm hoặc cũng có thể tiến triển rất nhanh, xâm lấn qua vùng rìa giác mạc và tiến vào vùng trung tâm giác mạc làm giảm thị lực. Phần mộng thịt nhô lên có thể làm phá hủy màng phim nước mắt gây cảm giác kích thích, xốn cộm, chảy nước mắt sống và tổn thương biểu mô giác mạc.
Trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều phương pháp điều trị mộng thịt như điều trị như phương pháp cắt mộng để trần củng mạc, vùi đầu mộng thì sau mổ Mắt vẫn kích thích, đỏ kéo dài gây giảm thẩm mỹ và bệnh nhân chưa hài lòng. Cắt mộng ghép kết mạc tự thân, ghép màng ối có hoặc không có áp Mitomycin-C. Những phương pháp trên đem lại nhiều ưu điểm nhưng vẫn còn nhiền hạn chế như dễ bong mảnh ghép, giá thành cao, phương pháp mổ phức tạp, cần có nguồn màng ối dự trữ. Điều này thôi thúc các nhà nhãn khoa tìm kiếm ra nhiều phương pháp khác nhau để hạn chế những nhược điểm và đem lại kết quả mỹ mãn hơn cho người bệnh.
Phương pháp cắt mộng ghép kết mạc 2 vạt xoay có nhiều ưu điểm như kỹ thuật mổ tương đối đơn giản, phục hồi được cấu trúc giải phẫu bình thường, 2 vạt xoay được khâu kín và tạo hàng rào ngăn cản sự tái phát của mộng thịt. Với phương pháp này, 2 mảnh ghép xoay có cuống rộng, đảm bảo sự lành vết mổ tốt, đảm bảo chức năng che kín củng mạc và các cơ vận nhãn, phòng ngừa biến chứng hoại tử mảnh ghép, hoại tử thượng củng mạc. Và là phương pháp phẫu thuật đem lại thẩm mỹ cho người bệnh, tỷ lệ hài lòng của người bệnh cao.
Tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương từ trước tới nay chưa áp dụng phương pháp này và vẫn còn những hạn chế như mắt đỏ kéo dài ,cộm xốn kéo dài sau mổ gây giảm thẩm mỹ và mức hài lòng của bênh nhân còn thấp . Vì vậy chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “ Đánh giá hiệu quả bước đầu phẫu thuật mộng thịt nguyên phát bằng phương pháp ghép kết mạc hai vạt xoay tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương ” với mục đích đánh giá hiệu quả của phương pháp, tính thẩm mỹ và độ hài lòng của người bệnh.
KẾT QUẢ
27 bệnh nhân mộng thịt nguyên phát độ III-IV, tuổi trung bình 61 ±8, Tỉ lệ nam/nữ 1.08, mộng độ III chiếm 81.5 %.Thị lực tăng sau 2 tuần phẫu thuật. Giảm kích thích sau 2 tuần phẫu thuật, ngừng kích thích sau 4 tuần phẫu thuật. Tỷ lệ biểu mô hóa sau 2 tuần phẫu thuật là 100%. Hầu hết bệnh nhân hài lòng với kết quả phẫu thuật, không có biến chứng nào .
TÀI LIỆU THAM KHẢO