✴️ Ðau lưng do hẹp ống sống thắt lưng có nguy hiểm?

Nguyên nhân gây hẹp ống sống

Hẹp ống sống là một thể biến dạng của cỡ kích thước ống sống bị hẹp so với cỡ kích thước bình thường, tương ứng với các tổ chức có liên quan cùng lứa tuổi. Người ta không xếp vào đây quá trình viêm (viêm đốt sống) các u và thoát vị đĩa đệm hoàn toàn.

Như vậy chỉ có nguyên nhân bẩm sinh và mắc phải gây nên hẹp lòng ống sống thắt lưng. Nếu là do bẩm sinh thì thường gặp hẹp ống sống do loạn dưỡng sụn, dị dạng đốt sống, hẹp ống sống nguyên phát, quá ưỡn cột sống thắt lưng, gai đôi cột sống, trượt đốt sống, hẹp ống sống sau chấn thương, biến đổi thoái hóa: phản ứng xương ở các cạnh và khớp đốt sống.

Nếu là do mắc phải thì hẹp ống sống lại do biến đổi thoái hóa như lồi đĩa đệm, giả trượt đốt sống; hẹp ống sống sau phẫu thuật: sau phẫu thuật cố định cứng, tổ chức sẹo; bệnh xương toàn thân: bệnh nhiễm độc flo, bệnh paget.

Tùy theo nguyên nhân, hẹp ống sống có thể ở từng đoạn hay cả toàn bộ ống sống. Sau khi mổ ống sống thắt lưng, hẹp ống sống có thể xảy ra do các mảng sẹo hoặc do sự phát triển chồng áp lên nhau ở phía trong cung đốt sống sau phẫu thuật bất động cột sống ở phía sau.

Các phẫu thuật làm cứng đốt sống cũng có thể xuất hiện tình huống tương tự. Trong các nguyên nhân gây hẹp ống sống, cần lưu ý dạng kết hợp hẹp ống sống trên cơ sở của quá trình thoái hóa do những phản ứng mọc gai xương ở các diện khớp nhỏ, những chỗ vồng lên của giới hạn sau của đĩa đệm và những dạng xô lệch giữa các đốt sống với nhau trong thoái hóa đĩa đệm cột sống thắt lưng, với tình trạng hẹp ống sống nguyên phát bẩm sinh. Dạng kết hợp gây hẹp ống này đã đóng vai trò quan trọng trong nguyên nhân của bệnh lý hẹp ống sống.

hẹp ống sống

Hẹp ống sống gây đau ở nhiều vị trí

Người ta xác định độ rộng của ống sống bằng những tiêu chuẩn X-quang là khoảng cách giữa hai cuống cung đốt sống. Ðường kính trước – sau của ống sống là đoạn ngắn nhất giữa cạnh sau của thân đốt sống và giới hạn sau của ống sống hoặc bờ trong của cung đốt sống.

Bằng khoảng cách liên cuống, người ta đã xác định được các quá trình khoáng thể tích trong ống sống. Hiện nay, bằng kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh (chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ), hẹp ống sống được chẩn đoán rất chính xác.

Theo Verbiest, đường kính trước – sau của ống sống vùng thắt lưng nếu nhỏ hơn 10mm thì được coi là hẹp tuyệt đối. Nếu 10-12mm là hẹp tương đối và theo P. Godeau, dưới 15mm được coi như hẹp.

Hẹp ống sống thắt lưng thường gọi là hội chứng hẹp ống sống thắt lưng. Bệnh nhân thường than phiền về đau lưng và dây thần kinh hông to trong nhiều năm và đã điều trị nhiều không khỏi. Đau đa dạng, trải qua đau mạn tính đến đau dây thần kinh hông to, rồi đến đau dây thần kinh đùi cả ở hai bên và cuối cùng là đau rễ thần kinh kiểu lan xuyên xuống hai chân.

Hai chân có phản ứng dị cảm, đôi khi liệt cơ và rối loạn cơ tròn kiểu kín đáo. Duỗi quá cột sống sẽ gây đau nên bệnh nhân có tư thế đi hơi ngả người về phía trước. Nếu đau thắt lưng và đau các rễ thần kinh khi đi hay đau tăng do đi lại và buộc bệnh nhân phải dừng lại thì được gọi là khập khễnh cách hồi rễ thần kinh.

Nếu đuôi ngựa bị xâm phạm có thể xuất hiện khập khễnh cách hồi của đuôi ngựa (đuôi ngựa là nơi hội tụ của rất nhiều rễ thần kinh thắt lưng – cùng).

hẹp ống sống

Đau mang tính chất phụ thuộc vào tư thế và liên quan đến khoanh đoạn tủy tương ứng là những đặc điểm quan trọng để chẩn đoán đau do nguyên nhân mạch máu.

Khập khễnh cách hồi đuôi ngựa xuất hiện trước hết khi bị áp lực trọng tải trong tư thế ưỡn cột sống. Đặc trưng của đau kiểu đó là: đau chân tăng mạnh khi đi xuống dốc, xuống thang và lại ngừng đau khi cúi nhẹ ra trước.

Chẩn đoán phân biệt với trượt đốt sống do tiêu eo đốt sống (lyse isthmique) vì cũng có hội chứng này và ngoài ra còn chẩn đoán phân biệt với suy yếu khớp.

Hẹp ống sống tiến triển tốt khi được phẫu thuật

Chỉ được đặt ra khi đã chẩn đoán xác định. Trước tiên cần phải áp dụng các biện pháp điều trị giống như chứng đau do đĩa đệm. Nếu điều trị bảo tồn không có kết quả thì chỉ định phẫu thuật.

Phương pháp nới rộng bằng thủ thuật cắt nửa cung sau hoặc toàn bộ cung sau đốt sống ở đoạn có hẹp ống sống. Mục đích của phẫu thuật là giải phóng sự chèn đẩy.

Nếu rễ thần kinh ở ngách bên bị chèn ép do ngách bên bị mất độ lõm sâu, có thể chỉ cần cắt bỏ một phần diện khớp trên. Trường hợp có hội chứng ở cả hai bên cần chỉ định cắt toàn bộ cung sau, kết quả điều trị phẫu thuật thường là tốt.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top