U màng não - chẩn đoán và thái độ điều trị

Nội dung

U màng não chiếm 15% các u trong sọ. Đối với người lớn tuổi từ 40 đến 60 là thường gặp nhất. Đàn bà chiếm ưu thế hơn đàn ông. Tuy nhiên, nó cũng thay đổi tùy theo vị trí của u, tỉ lệ 3:1 thường trên lều tiểu não; tỉ lệ 5:1 gặp ở tủy sống. U màng não hiếm gặp ở trẻ con, chiếm tỉ lệ khoảng 1,5 %. Nếu sảy ra ở trẻ con, u màng não thường có xu hướng ác tính và thường xảy ra đồng đều ở cả hai phái. 90% u màng não là trên lều và hiếm xuất hiện ở ngoài hệ thống thần kinh trung ương, đó là những dấu vết lạc chỗ của tế bào màng não.

Biểu hiện lâm sàng.

Dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng của u màng não thường liên quan đến vị trí và kích thước u.

Động kinh là một dấu hiệu có ý nghĩa, gặp khoảng 20%-25%. Vùng cuống u có khuynh hướng dày xương tại vùng đó. Do u màng não là một u nằm ngoài trục, khi u lớn thường chèn ép vào vỏ não gây nên các triệu chứng và hội chứng lâm sàng, đôi lúc có những trường hợp u rất to nhưng không có biểu hiện gì ngoài triệu chứng đau đầu nhưng cũng không đặc hiệu, vì đau đầu không nặng và vị trí đau không điển hình tại vùng có u.

Một vài trường hợp u màng não vùng trán, u dây I có thể xuất hiện hội chứng Foster Kennedy, có nghĩa là teo gai thị cùng bên với thương tổn và phù gai thị phía đối bên; Còn đối với u màng não vùng đỉnh-chẩm khi có chèn ép vào vùng khe cựa, vùng 17 và 18 trên bản đồ Broadman sẽ có biểu hiện bán manh ¼ của cả hai mắt. Nếu u màng não xuất hiện tại vùng rãnh trung tâm, nhất là tại hồi trán lên, vùng vận động của hình người lộn ngược Penfield sẽ có liệt vận động không đồng đêu.

Diễn biến lâm sàng u màng não kéo dài nhiều năm cho đến khi u rất to mới phát hiện được trên CT hoặc MRI não vì các triệu chứng rất nghèo nàn, ngoại trừ triệu chứng đâu đầu có sớm nhưng không phải là điển hình.

Chẩn đoán hình ảnh

X quang quy ước là một biện pháp thường quy, không phải giữ vai trò chẩn đoán u màng não nhưng cũng có một vài dấu hiệu gián tiếp như dày xương hoặc hủy xương có thể là một gợi ý nhỏ để tầm soát u màng não.

Ct scan đầu là một biện pháp chần đoán xác định với một khối ngấm thuốc đồng đều, có bờ rõ. Phù não quang u được thấy rõ trên Ct scan.

Cộng hưởng từ là biện pháp tốt nhất hiện nay và cũng là một biện pháp chọn lựa cho các nhà phẫu thuật thần kinh cũng như các nhà thần kinh học. Cộng hưởng từ (MRI) với Gadolinium sẽ giúp chẩn đoán xác định tốt hơn với các tiêu chí sau:

  • Xác định vị trí khối u
  • Kích thước u
  • Xâm lấn của u tới các cấu trúc xung quanh
  • Dự đoán bản chất u
  • Độ phù quang u
  • Dãn não thất hay không dãn não thất

Cộng hưởng từ động mạch MRA và cộng hưởng từ tĩnh mạch (MRV) gần giống như chụp mạch máu số hóa xóa nền quy ước. Vì MRA và MRV là phương pháp chụp mạch máu không xâm lấn để cho thấy những mạch máu vào nuôi u và các tĩnh mạch dẫn lưu để xác định kế hoạch phẫu thuật. MRA cho thấy hình ảnh giải phẫu của động mạch, co thắt động mạch và thường là mạch máu trong u. MRV cho thấy các tĩnh mạch dẫn lưu hoặc tắc xoang tĩnh mạch. Chụp mạch máu số hóa xóa nên (DSA) là một phương pháp cần thiết đối với các u màng não có đậm độ cao (tỉ trọng) trên Ct scan hoặc bắt tín hiệu cao trên MRI nhằm khảo sát thêm mạch máu nuôi u. Qua đó dùng biện pháp tắc mạch máu lớn nuôi u trước mổ để đảm bảo an toàn trong phẫu thuật. Vì tắc mạch trước mổ có thể giúp phẫu thuật viên cắt bỏ u hoàn toàn khi dựa trên DSA kiểm soát cẩn thận mạch máu và nuôi u.

 

Điều trị

U màng não thường là u phát triển chậm, lành tính, vì vậy lấy toàn bộ u là một biện pháp tối ưu. Tuy nhiên có một vài u dính vào cấu trúc sinh tồn và cấu trúc mạch máu là một thách thức không nhỏ đối với các phẫu thuật viên thần kinh khi loại bỏ hoàn toàn các u này. Chọn lựa đường vào u và áp dụng kỹ thuật vi phẫu là một phương pháp hữu hiệu nhất để loại bỏ hoàn toàn u nhằm cải thiện chất lượng sống tốt hơn. Vì là một u lành tính nên tỉ lệ lấy toàn bộ u từ 80%-90%. Nếu đã lấy toàn bộ u không cần xạ trị (radiotherapy) hoặc xạ phẫu (radiosurgery) sau mổ.

Kết quả xạ trị trong điều trị u màng não cũng còn nhiều hạn chế. Đối với các u màng não ác tính và hemangiopericytoma được khuyến cáo xạ trị. Xạ phẫu với liều cao phải vào đúng đích của u mới có hy vọng làm cho kích thước của u nhỏ lại hoặc ổn định kích thước. Xạ phẫu thường được dùng cho các u màng não có kích thước nhỏ, đường kính dưới 2cm đường kính. Xạ phẫu là một phương pháp có thể làm cho kích thước khối u có thể nhỏ lại hoặc thể tích u phát triển chậm khi chưa cắt bỏ hoàn toàn u. Khi chỉ định xạ phẫu cần phải xem xét và đánh giá thận trọng đối với những u màng não có kích thước thích hợp sau phẫu thuật còn để lại phần nhỏ u, hoặc những u rất nhỏ ở vị trí sâu, hoặc những người già có u màng não rất nhỏ và những u màng não tái phát nhưng không thể mổ lại.

Đối với các u màng não lành tính, xạ trị phân liều là một chỉ định cứu chữa cho những u không mổ, đối với những u còn để lại sau mổ, hoặc những u tái phát không có chỉ định mổ mà nó vượt ngoài chỉ định xạ phẫu.

Có nhiều biện pháp nội khoa được xem xét trong điều trị u màng não là chất đối kháng nội tiết như Tamoxifen, Mifepristone (RU486) cũng được sử dụng để làm ổn định thể tích u do đáp ứng một phần của chất này. Cũng có những nghiên cứu liên quan đến Hydroxyurea và Interferon – 2B là những chất tương tự cũng làm cho thể tích u ổn định. Hiện nay điều trị nội khoa cũng là một chọn lựa đối với u màng não không thể cắt bỏ tận gốc và có xu hướng tái phát. Hóa trị liệu bổ xung cho các u màng não ác tính là cần thiết nhưng hiệu quả vẫn còn nhiều bàn cãi.

return to top