Chọc dò bể thận dưới hướng dẫn siêu âm là chọc kim thăm dò trực tiếp vào bể thận nhằm giải quyết nhanh tình trạng ứ đọng nước tiểu tại bể thận góp phần hồi phục nhu mô và chức năng thận. Chọc dò bể thận dưới hướng dẫn siêu âm có thể giúp cho việc thực hiện kỹ thuật chụp bể thận xuôi dòng nhằm tìm vị trí và nguyên nhân gây tắc nghẽn.
Tắc nghẽn đường bài xuất trên có thể do:
Bệnh ác tính: ung thư tử cung, phì đại tuyến tiền liệt, xương chậu di căn, ung thư của hệ tiết niệu…
Sỏi thận, sỏi niệu quản, viêm xơ hóa chít hẹp niệu quản.
Chít hẹp niệu quản sau phẫu thuật.
Viêm ứ mủ bể thận.
Rối loạn đông máu nặng không đáp ứng với điều trị.
Đang được điều trị với chống đông: aspirin, warfarin, heparin.
Tăng huyết áp không kiểm soát được.
Khối u thận, lao thận.
Bệnh toàn thể nặng tiên lượng tử vong.
Bác sĩ: 01 bác sĩ cầm đầu dò siêu âm và 01 bác sĩ thực hiện thủ thuật.
Điều dưỡng: 01 phụ giúp các bác sĩ tiến hành thủ thuật.
Giường thực hiện thủ thuật: 01
Máy siêu âm với đầu dò Convex 3,5 MHz đã được sát khuẩn
Túi camera vô khuẩn: 01 bộ
Catheter tĩnh mạch trung tâm: 01 bộ
Bộ dây truyền huyết thanh: 01 bộ
Túi đựng nước tiểu: 01 chiếc
Dung dịch betadin sát trùng: 01 lọ
Săng vô khuẩn loại có lỗ: 01 chiếc
Săng vô khuẩn không có lỗ: 01 chiếc
Thuốc gây tê lidocain 2%: 04 ống
Nước muối sinh lý 0,9%: 500ml
Kim tiêm, bơm tiêm 5ml: 01 chiếc
Bơm tiêm 20ml: 02 chiếc
Bông băng, gạc vô trùng: 04 gói
Găng tay vô trùng: 03 đôi
Ống nghiệm: 04
Bộ dụng cụ và thuốc chống choáng, chống sốc phản vệ.
Người bệnh đã được làm các xét nghiệm về đông máu cơ bản và các xét nghiệm cơ bản khác.
Người bệnh được siêu âm thận tiết niệu.
Người bệnh có thể được chụp Xquang hệ tiết niệu trong trường hợp sỏi đường tiết niệu hoặc có chụp cắt lớp vi tính trong các trường hợp ung thư gây chèn ép, có thể có MRI hoặc MSCT dựng hình niệu quản trong các trường hợp cần thiết.
Người bệnh có biểu hiện nhiễm trùng, thận ứ mủ được dùng kháng sinh trước khi làm thủ thuật, thời gian và liều lượng tùy thuộc vào mức độ nhiễm trùng.
Người bệnh và người nhà được nghe bác sĩ giải thích kỹ về tác dụng và tai biến của thủ thuật và ký vào giấy cam kết đồng ý làm thủ thuật.
Bệnh án được hoàn thiện với các thủ tục dành cho người bệnh tiến hành làm thủ thuật: hồ sơ đã duyệt can thiệp can thiệp thủ thuật, giấy cam đoan có ký xác nhận của người bệnh hoặc người nhà.
Kiểm tra các xét nghiệm đã được làm.
Đối chiếu tên, tuổi, chẩn đoán bệnh.
Người bệnh được thử phản ứng với thuốc gây tê lidocain.
Người bệnh được theo dõi mạch, huyết áp trước khi tiến hành thủ thuật.
Người bệnh được nằm nghiêng bộc lộ bên thận cần chọc dò.
Bác sĩ rửa tay, đi găng vô trùng.
Sát trùng da vùng định chọc dò.
Trải săng vô trùng loại có lỗ.
Định vị bằng siêu âm để tìm điểm chọc dò vào bể thận.
Gây tê vùng dẫn lưu.
Đưa kim dẫn đường vào bể thận dưới sự hướng dẫn của siêu âm. Dùng bơm 20 ml rút dịch trong bể thận ra ngoài.
Lấy mẫu xét nghiệm dịch: sinh hóa, tế bào, cấy định danh vi khuẩn, PCR lao.
Luồn catheter vào vào bể thận. Khi catheter đã đặt đúng vị trí trong bể thận thì tiến hành nối catheter dẫn lưu với bộ dây truyền và túi đựng nước tiểu.
Khâu cố định catheter.
Siêu âm kiểm tra lại vị trí catheter trong bể thận.
Băng vùng chân catheter.
Cho người bệnh về giường bệnh.
Các thông số sinh tồn: toàn trạng, mạch, huyết áp, nhịp thở.
Kiểm soát đau.
Theo dõi dịch số lượng, tính chất, màu sắc qua catheter.
Siêu âm lại thận - tiết niệu sau 24 giờ.
Kháng sinh theo tình trạng bệnh.
Có thể chảy máu từ nhu mô hoặc từ mạch máu liên sườn. Chảy máu thông thường tự cầm và không ảnh hưởng đến huyết động.
Trường hợp chảy máu nghiêm trọng từ các nhánh của động mạch thận. Cần truyền máu để giúp ổn định tình trạng của người bệnh. Nên tiến hành chụp mạch để xác định nguồn chảy máu và nút mạch nếu cần.
Tổn thương cơ quan lân cận hiếm gặp ví dụ như đại tràng, trong hầu hết các
trường hợp điều trị bảo tồn với kháng sinh và nhịn ăn.
Mark J, Hogan M, Brian D et al. (2001). “Percutaneous Nephrostomy in Children and Adolescents: Outpatient Management”. Radiology 218: pp.207-10.
Mosbah A, Siala A (1990). “Percutaneous nephrostomy in the treatement of Pyonephrosis. A comparative study apropos of 36 cases”. Ann Urol (Paris) 24 (4): pp. 279 - 81.
Ogg CS, Pedersen JS (1969). “Percutaneous Needle Nephrostomy”. Bristish Medical Journal 4: pp.657 - 60.
Karim SS R, Samanta S, Aich RK et al. (2010). “Percutaneous nephrostomy by direct puncture technique: An observational study”. Indial journal of Nephrology 20 (2): pp.84 - 8.
Radecka E MA (2004). “Complications associated with percutaneous nephrostomies. A retrospective study”. Acta Radiol 45 (2): pp.184 - 8.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh