✴️ Giải phẫu Thận

Nội dung

I. Hình thể ngoài

Thận hình hạt đậu, màu nâu đỏ, bề mặt trơn láng nhờ được bọc trong một bao xơ mà bình thường có thể bóc ra dễ dàng. Mỗi thận gồm có:

  • Hai mặt: mặt trước lồi, mặt sau phẳng

  • Hai bờ: bờ ngoài lồi, bờ trong lồi phần trên và phần dưới; phần giữa bờ trong lõm sâu gọi là rốn thận là nơi động mạch vào thận, tĩnh mạch và niệu quản ra khỏi thận

  • Hai đầu: trên và dưới

 

II. Kích thước

Thận cao khoảng 12cm, rộng 6cm, dày 3cm

 

III. Vị trí

Thận nằm sau phúc mạc, trong góc hợp bởi xương sườn XI và cột sống thắt lưng, ngay phía trước cơ thắt lưng. Trục lớn của thận chạy chếch từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, từ trước ra sau. Thận phải thấp hơn thận trái khoảng 2cm.

  • Ở tư thế nằm thì: rốn thận phải ở ngang mức môn vị và cách đường giữa khoảng 4cm; rốn thận trái cao hơn

  • Đối chiếu lên thành sau :

Rốn thận trái ngang mức mỏm ngang đốt sống thắt lưng I hay ở giao điểm giữa bờ ngoài khối cơ dựng sống và bờ dưới xương sườn XII. Đầu trên thận trái ngang bờ trên xương sườn XI. Đầu dưới cách điểm cao nhất mào chậu khoảng 5cm. Đầu trên thận phải ở ngang bờ dưới xương sườn XI.

Mạc thận

Mỗi thận và tuyến thượng thận cùng bên được bao bọc trong mạc thận. Giữa thận và tuyến thượng thận, mạc thân có một trẽ ngang ngăn cách hai cơ quan này. Mạc thận gồm hai lá, một lá trước và một lá sau được sắp xếp:

  • Ở phía trên tuyến thượng thận: hai lá mạc thận chập vào nhau và dính vào lá mạc dưới cơ hoành

  • Ở dưới: hai lá mạc sát nhau nhưng vẫn riêng, rồi hòa lẫn vào lớp mô ngoài phúc mạc.

  • Ở trong: lá sau hòa lẫn vào mạc cơ thắt lưng và qua đó đến bám vào thân các đốt sống thắt lưng. Lá trước đi trước bó mạch thận và động mạch chủ rồi liên tiếp với lá trước bên đối diện. Tuy nhiên, hai lá phải và trái đều dính cả vào cuống thận và tổ chức liên kết quanh các mạch máu ở rốn thận hên hai ổ thận không thông với nhau, áp xe ở một bên thận không lan sang bên kia được.

  • Ở ngoài: hai lá châp vào nhau và hòa lẫn vào lớp mô liên kết ngoài phúc mạc.

Mạc thận ngăn cách với bao xơ của thận bởi một lớp mỡ gọi là bao mỡ hay lớp mỡ quanh thận. Còn lớp mỡ ngoài mạc thận gọi là lớp mỡ cạnh thận.

 

IV. Liên quan

1. PHÍA TRƯỚC:

a. Thận phải: Thận phải nằm gần hết trong tầng trên mạc trao kết tràng ngang nhưng ngoài phúc mạc

  • Đầu trên và phần trên bờ trong liên quan với tuyến thượng thận

  • Bờ trong và cuống thận liên quan với phần xuống tá tràng

  • Một phần lớn mặt trước thận phải liên quan với vùng gan ngoài phúc mạc. Phần còn lại liên quan với góc kết tràng phải và ruột non

b. Thận trái: nằm một nửa ở tầng trên, một nửa ở tầng dưới mạc treo kết tràng ngang, có rễ mạc treo kết tràng ngang nằm bắt chéo phía trước

  • Đầu trên và phần trên bờ trong cũng liên quan với tuyến thượng thận

  • Dưới đó lần lượt liên quan với mặt sau dạ dày qua túi mạc nối, với thân tụy và lách, với góc kết tràng trái, phần trên kết tràng xuống và ruột non

2. PHÍA SAU: LÀ MẶT PHẪU THUẬT CỦA THẬN. XƯƠNG SƯỜN XII NẰM CHẮN NGANG THẬN Ở PHÍA SAU CHIA THẬN LÀM HAI TẦNG: TẦNG NGỰC Ở TRÊN, TẦNG THẮT LƯNG Ở DƯỚI
  • Tầng ngực: liên quan chủ yếu với xương sườn 12, cơ hoành và ngách sườn - hoành của mặt phổi

  • Tầng thắt lưng: từ trong ra ngoài, mặt sau thận ở tầng thắt lưng liên quan đến cơ thắt lưng, cơ vuông thắt lưng và cơ ngang bụng.

3. PHÍA TRONG
  • Cơ thắt lưng và phần bụng của thân thần kinh giao cảm ở bờ cong cơ này

  • Bó mạch tuyến thượng thận, bó mạch thận, bể thận và phần trên niệu quản, bó mạch tinh hoàn hay buồng trứng, tĩnh mạch chủ dưới ( đối với thận phải ) và động mạch chủ bụng ( đối với thận trái ).

 

VI. Hình thể trong

1. ĐẠI THỂ:

Thận được bọc trong một bao sợi, nhìn trên một thiết đồ đứng ngang qua thận ta thấy ở giữa là xoang thận có bó mạch, thần kinh và bể thận đi qua. Bao quanh xoang thận là khối nhu mô thận hình bán nguyệt.

A. XOANG THẬN

Xoang thận thông ra ngoài ở rốn thận. Thành xoang có nhiều chỗ lồi lõm. Chỗ lồi hình nón gọi là nhú thận. Nhú thận cao khoảng 4-10mm. Đầu nhũ có nhiều lỗ của các ống sinh niệu đổ nước tiểu vào bể thận. Chỗ lõm úp vào nhú thận gọi là các đài thận nhỏ. Các đài thận nhỏ hợp thành đài thận lớn, hợp lại thành bể thận. Bể thận nối với niệu quản

B. NHU MÔ THẬN
  • Tủy thận: cấu tạo gồm nhiều khối hình nón gọi là tháp thận. Đáy tháp quay về phía bao thận, định hướng về xoang thận tạo nên nhú thận.

  • Vỏ thận :

Cột thận: phần nhu mô nằm giữa các tháp thận

Tiểu thùy vỏ: phần nhu mô từ đáy tháp thận tới bao sợi. Tiểu thùy vỏ chia hai phần:

+ Phần tia: gồm các khối hình tháp nhỏ, đáp nằm trên đáy tháp thận, đỉnh hướng ra bao sợi thận

+ Phần lượn: là phần nhu mô xen giữa phần tia

2. VI THỂ

Nhu mô thận được cấu tạo chủ yếu bởi những đơn vị chức năng thận gọi là nephron. Mỗi nephron gồm một tiểu thể thận và một hệ thống ống sinh niệu. Tiểu thể thận gồm một bao ở ngoài và một cuộn bao mạch bên trong. Hệ thống ống sinh niệu gồm có: các tiểu quản lượn, ống lượn gần, quai Henle, ống lượn xa và ống thu thập.

Tiểu thể thận, ống lượn gần, ống lượn xa nằm trong phần lượn của vỏ thận. Quai Henlé, ống thẳng, ống thu thập nằm trong phần tia của vỏ thận và tủy thận. Mỗi phần nephron có một vai trò riêng trong việc bài tiết, hấp thu nước và một số chất trong quá trình thành lập nước tiểu.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top