Tổn thương trong viêm phế quản mạn tính chủ yếu khu trú ở niêm mạc đường thở. Bệnh thường khởi phát do các đợt nhiễm trùng đường hô hấp, gây viêm, phù nề, tăng tiết và thắt hẹp đường thở. Khi không được điều trị phù hợp, hoặc các đợt nhiễm trùng đường hô hấp tái đi, tái lại nhiều lần, khi đó bệnh phát triển thành viêm phế quản mạn tính.
Viêm phế quản mạn tính thường có các biểu hiện lâm sàng như sau:
Khi bị viêm phế quản mạn tính, người bệnh thường ho thúng thắng, hoặc thành cơn. Các cơn ho thường nặng lên sau mỗi đợt nhiễm trùng đường hô hấp, hoặc khi có thay đổi thời tiết, khi trời lạnh, tiếp xúc khói, bụi…
Các cơn ho thường kèm theo có đờm, khạc đờm kéo dài, đờm thường có màu trắng, trong những trường hợp có bội nhiễm do vi khuẩn đờm có thể có màu vàng, hoặc màu xanh
Đây cũng là biểu hiện ít gặp trong viêm phế quản mạn tính. Nếu bệnh nhân có biểu hiện khó thở thì thường cần tìm bằng chứng chẩn đoán bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế quản, hoặc bệnh nhân có viêm phế quản mạn, nhưng kèm theo các căn nguyên khác gây khó thở như suy tim (nếu có).
Bệnh viêm phế quản mạn tính thường tái đi, tái lại nhiều lần, việc điều trị mỗi đợt thường kéo dài nên người bệnh dễ cảm thấy mệt mỏi. Tuy nhiên bệnh không gây sút cân. Nên chỉ cần thăm khám và điều trị hiệu quả là không gây ảnh hưởng nghiêm trọng gì đến sức khỏe.
Trước khi chẩn đoán viêm phế quản mạn tính, các bác sỹ thường chỉ định làm một số xét nghiệm cận lâm sàng như sau:
Việc chụp X quang phổi là rất cần thiết giúp loại trừ các căn nguyên ho kéo dài do các bệnh có tổn thương ở nhu mô phổi (lao phổi, ung thư phổi, viêm phổi kẽ …) hoặc các bệnh lý phế quản như giãn phế quản …
Đây là kỹ thuật thăm dò giúp phân biệt chẩn đoán viêm phế quản mạn tính. Những trường hợp ho kéo dài, không có tổn thương nhu mô phổi, sau khi loại trừ hết các căn nguyên gây ho khác. Nếu kết quả đo chức năng thông khí phổi bình thường thì bệnh nhân được chẩn đoán viêm phế quản mạn tính, nếu thấy hình ảnh rối loạn thông khí tắc nghẽn khi đó bệnh nhân sẽ được chẩn đoán bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
Bác sĩ có thể nội soi tai mũi họng hoặc nội soi dạ dày khi cần thiết để giúp loại trừ các nguyên nhân gây ho kéo dài như viêm xoang, viêm mũi họng, trào ngược dạ dày – thực quản, nếu như các biện pháp chẩn đoán viêm phế quản trên không cho ra kết quả chính xác.
Tránh yếu tố nguy cơ có thể gây bùng phát các đợt cấp của bệnh:các bệnh nhân có bệnh viêm phế quản mạn tính cần tránh các yếu tố sau:
– Không hút thuốc, tránh tiếp xúc khói thuốc, khói bếp, các môi trường nhiều khói, bụi …
– Tránh lạnh, ẩm; trong những điều kiện buộc phải ra ngoài môi trường lạnh, ẩm thì nên quấn khăn kín cổ, đeo khẩu trang;
– Tránh gió lùa trong nhà;
– Nên tiêm vaccin phòng cúm hàng năm. Thời gian tiêm tốt nhất là vào tháng 9 hàng năm. Việc tiêm vaccin phòng cúm giúp giảm đáng kể tần xuất các đợt cấp của bệnh;
– Dùng thuốc theo chỉ định từ bác sĩ: cần cân nhắc việc dùng kháng sinh trong điều trị viêm phế quản mạn tính khi có những đợt cấp, bệnh nhân có khạc đờm màu vàng, màu xanh, hoặc đờm mủ (đây là những trường hợp bệnh nhân có đợt cấp thường do căn nguyên vi khuẩn)
Các loại kháng sinh thường được ưu tiên dùng để điều trị bệnh viêm phế quản mạn tính gồm:
Thời gian dùng kháng sinh thường kéo dài 7-10 ngày trong một đợt điều trị.
– Để tránh mắc viêm phế quản mạn tính, cần thực hiện các biện pháp sau:
– Không hút thuốc, tránh tiếp xúc khói thuốc, bụi nghề nghiệp;
– Tránh lạnh, ẩm;
– Điều trị sớm và triệt để các đợt nhiễm trùng đường hô hấp;
– Vệ sinh răng, miệng thường xuyên.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh