Cấu tạo, chức năng của phổi

Nội dung

1. Tìm hiểu về cấu tạo của phổi người 

1.1. Hình thể ngoài của phổi 

Xét trên phương diện giải phẫu học, phổi người là một cơ quan có dạng xốp, đàn hồi, được treo bằng dây chằng và cuống phổi trong khoang màng phổi. Tùy vào lượng khí được chứa bên trong mà thể tích của phổi  sẽ thay đổi theo. Trung bình 2 lá phổi người có thể chứa tới 4500 - 5000ml khí. Ở trẻ nhỏ phổi sẽ có màu hồng, tuy nhiên người trưởng thành phổi sẽ có màu xám hoặc xanh biếc.

Trẻ sơ sinh sở hữu lá phổi nặng khoảng 50 - 60g và 30 triệu phế nang. Ở người lớn lá phổi có khối lượng là từ 300 - 475g và số lượng phế nang nhiều gấp 10  lần trẻ nhỏ - khoảng 300 triệu. 

Cơ thể mỗi người gồm có 2 lá phổi. Phổi bên phải có 3 thùy đều được gọi là thùy phải, chia thành thùy phải trên - giữa - dưới. Trong khi đó phổi bên trái có 2 thùy được gọi là thùy trái, bao gồm thùy trái trên - dưới.

Mỗi phổi sẽ được giới hạn bởi một đỉnh, một đáy và giữa 3 mặt của phổi sẽ có các bờ ngăn cách. Đặc điểm cụ thể của bề mặt phổi được mô tả như sau:

  • Đỉnh phổi tròn, nhô qua nền lỗ trên lồng ngực. Vắt ngang ngay đỉnh màng phổi là động mạch dưới đòn, còn hạch giao cảm cổ ngực nằm ngay phía sau đỉnh màng phổi;

  • Mặt đáy hay mặt hoành của phổi lõm vào, úp khớp lên vòm trên của cơ hoành. Bởi vì vị trí của gan với phổi chỉ cách nhau một cơ hoành nên trong nhiều trường hợp bệnh nhân bị mủ áp xe gan dễ có xu hướng đi qua cơ hoành để lan lên phổi và gây viêm nhiễm tại đây;

  • Mặt trước hay còn gọi là mặt sườn của phổi khá nhẵn mịn, lồi lên, áp vào lồng ngực;

  • Mặt trong hay còn gọi là mặt trung thất áp vào tim. Chỗ này của phổi sẽ lõm sâu vì có ấn tim;

  • Rốn phổi nằm ngay trên ấn tim. Mỗi lá phổi có 2 rốn phổi nằm chia đều bên trái và bên phải. Đây là cửa ngõ vào ra của các thành phần cấu tạo nên phổi như động mạch phổi, phế quản chính, động mạch và tĩnh mạch phế quản, 2 tĩnh mạch phổi, hạch bạch huyết và các dây thần kinh. Đồng thời đây cũng là vị trí để màng phổi tạng và màng phổi thành kết nối với nhau. Ngoài ra rốn phổi còn có nhiệm vụ cố định rễ phổi bằng cách bám phổi vào khí quản, tim và các tổ chức xung quanh;

  • Màng phổi là một lớp được gọi là bao thanh mạc bọc kín phổi, bao gồm màng phổi thành và màng phổi tạng. Ở trạng thái thông thường hai màng này sẽ áp sát vào nhau, chỉ đến khi bệnh nhân bị tràn khí hoặc tràn dịch màng phổi thì chúng mới tách xa nhau.

 

1.2. Hình thể trong của phổi  

Bên trong lá phổi có rất nhiều bộ phận cấu thành nên, bao gồm tĩnh mạch và động mạch phổi, tĩnh mạch và động mạch phế quản, các nhánh phân chia của phế quản chính, các sợi thần kinh của đám rối phổi, hạch bạch huyết, mô liên kết các thành phần và mô bao quanh ngoài phổi.

Phế quản chính ở trong phổi có đặc điểm phân chia như sau:

Ở đoạn khí quản tại vị trí đốt sống ngực IV sẽ rẽ ra thành phế quản chính trái và phải. Trong đó phế quản chính trái sẽ dài hơn, nhỏ hơn và thẳng hơn so với phế quản chính phải. Phế quản chính thuộc bên nào sẽ đi qua rốn phổi của bên đó, chúng vẫn giữ 1 trục thân chính đi trong phổi và từ đây sẽ phân ra thành phế quản thùy, dần dần các phế quản thùy lại chia ra những nhánh nhỏ hơn thành tiểu phế quản, tiểu phế quản tiểu thùy dẫn đến các phế nang. Những phế nang này thường được bao quanh bởi mạng lưới các mao mạch.

Xét về cấu tạo mô học, phế quản do  4 lớp tạo thành, đó là lớp sụn sợi, lớp cơ trơn, lớp dưới niêm mạc và cuối cùng là lớp niêm mạc chứa những tuyến phế quản.

 

2. Phổi có những chức năng gì? 

Sau đây là vai trò chính của phổi:

  • Một trong những chức năng quan trọng nhất của phổi đó chính là trao đổi khí. Nhiệm vụ này do mạng lưới các mao mạch vây quanh phế nang đảm nhiệm. Vì sự chênh lệch về áp suất giữa khí Oxy và CO2 nên phế nang sẽ chuyển Oxy vào máu, sau đó hemoglobin của hồng cầu gắn vào Oxy khiến cho máu có màu đỏ tươi tuần hoàn đi khắp cơ thể và nuôi sống các cơ quan khác. Trong khi đó khí CO2 thì được chuyển ngược lại từ máu vào phế nang và do phế quản thở đưa ra ngoài cơ thể;

  • Bên ngoài phế nang và phế quản có một lớp màng nhầy mỏng và lớp nhung mao mịn bao phủ. Lớp nhầy có công dụng giữ lại hạt phấn, hạt bụi và các chất bẩn xâm nhập. Còn các nhung mao khi chuyển động sẽ giúp “quét dọn" chất bẩn ra khỏi đường hô hấp, đưa sang thực quản để theo nước miếng đi xuống hệ tiêu hóa và bài tiết ra ngoài;

  • Trong lòng phế quản, phế nang được lót một lớp tế bào biểu mô, còn nền mạch là lớp tế bào nội mô giúp ngăn cản  sự xâm nhập của nước và phân tử protein tiến vào mô kẽ. Mô kẽ là tổ chức liên kết mao quản và màng phế nang. Mô kẽ được tạo nên từ nhiều tế bào miễn dịch có tác dụng sản sinh ra các kháng thể, giúp tiêu diệt những vi sinh vật và tác nhân gây bệnh;

  • Xác vi khuẩn và xác bạch cầu sẽ được tích tụ lại dưới dạng đờm và tống xuất ra ngoài cơ thể.

return to top