✴️ Chẩn đoán và điều trị đau thần kinh mãn tính

Định nghĩa đau mãn tính

Chỉ có những người đang trải qua sự đau đớn có thể mô tả nó đúng cách. Đau là một trải nghiệm rất cá nhân. Đau là một trải nghiệm cảm giác và cảm xúc khó chịu liên quan đến tổn thương mô thực tại hoặc tiềm tàng.

Đau mãn tính là đau tiếp tục sau thời gian chữa khỏi bệnh thông thường hoặc đau kéo dài trên 3 đến 6 tháng, do bất cứ nguyên nhân nào. Đau mãn tính có tính di truyền. Nhóm nghiên cứu phát hiện ra có một biến thể gen, DRD1, DRD2 liên quan đến đau mãn tính.

Dịch tễ học

Việc đánh giá đau tùy thuộc vào định nghĩa, lên đến 20% người lớn nhận được chăm sóc đau mãn tính của bác sĩ. Đau mãn tính tăng theo độ tuổi từ 20 đến 60, chủ yếu là do đau các khớp. Khoảng 50% bệnh nhân ung thư bị đau ở một số giai đoạn của bệnh và nó thường trở thành trọng tâm của y học.

Lâm sàng và phân loại đau

Đau cấp tính là đau có cường độ mãnh liệt và ngắn ngủi. Đau cấp tính có thể là một dấu hiệu của một chấn thương, bệnh lý nội tạng và khi vết thương lành nỗi đau thường biến mất, thời gian khoảng < 4 tuần.

Đau mãn tính – cảm giác này kéo dài lâu hơn so với đau cấp tính, thường 3-6 tháng. Đau mãn tính có thể nhẹ hoặc cường độ cao (nặng).

​          đau mạn tính

Nguyên nhân đau do thần kinh

Đau thần kinh ngoại biên phát sinh ngoại vi (sợi nhỏ), bệnh thần chèn ép, bệnh thần kinh khu trú và đau chân tay ma sau cắt cụt.

Nguyên nhân phổ biến nhất của sợi thần kinh nhỏ là đái tháo đường kiểm soát kém, sự thiếu hụt vitamin (đặc biệt là tình trạng thiếu dinh dưỡng), các độc tố và các loại thuốc, virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV), hội chứng cận ung thư, và bệnh thần kinh di truyền (ví dụ, erythromelalgia, thoái hóa dạng tinh bột).

Đau thần kinh trung ương bao gồm đau sau đột quỵ não và đau từ bệnh tủy, như chấn thương, bệnh xơ cứng rải rác, bệnh tủy sống và liên quan đến HIV .

Đau thần kinh thường được mô tả như nhức nhối, cháy bỏng, và châm chích. Có thể có đau ở vùng tê, ngứa ran, hoặc cảm giác chân bị kim châm. Đau phát sinh từ một khu vực gây tê được gọi là “đau gây tê”.

Điều trị chung

Acetaminophen (hoặc paracetamol)

Thuốc này được sử dụng cho thời gian hạn chế đau thụ thể đau nhẹ. Nó không làm giảm bớt đau thần kinh nhưng có thể hữu ích khi đau thần kinh càng trầm trọng hơn bởi một thành phần đau thụ thể.

Liều lượng là 500 đến 1000 mg bằng đường uống mỗi 6 giờ.

Không dùng thuốc vời liều 4 g/ngày

Thuốc ít tác dung phụ nhưng liều tích lũy quá mức và quá liều có thể dẫn đến suy gan. Kéo dài thời gian prothrombin đã được báo cáo và chăm sóc phải được thực hiện với bệnh nhân dùng thuốc chống đông máu, hạn chế cho bệnh nhân đái tháo đường.

Thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs)

Những loại thuốc này được sử dụng để giảm đau mức độ vừa, đặc biệt là nếu có một phản ứng viêm. Không sử dụng lâu dài của NSAIDs (quá 4 tuần). Chúng ít có tác dụng hoặc không có lợi ích cho đau thần kinh và đau mãn tính. Hiệu quả của NSAID cũng khác nhau. Tuy nhiên, bệnh nhân có thể đáp ứng tốt hơn với một vài loại (theo kinh nghiệm). Những loại thuốc NSAID có khả năng phản ứng dị ứng và tác dụng phụ về tiêu hóa, suy thận, cao huyết áp và suy tim.

Tramadol

Tramadol hoạt động tại các thụ thể μ-opioid và cũng làm tăng serotonergic và noradrenergic ức chế đau do thụ thể đau.

Nó được sử dụng để giảm đau từ trung bình đến nặng. Nó là hữu ích hơn ở những bệnh nhân đau nociceptive hơn trong những trường hợp đau do thần kinh.

Tramadol có thể hiếm khi gây co giật và cần được sử dụng thận trọng ở những bệnh nhân bị động kinh hoặc đồng thời với các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs). Tác dụng phụ phổ biến khác bao gồm buồn nôn, buồn ngủ, và đổ mồ hôi. Liều quá mức có thể suy hô hấp. Tổng liều tối đa hàng ngày là 400 mg/ngày. 

​     điều trị đau mạn tính

Thuốc chống trầm cảm

Chống trầm cảm ba vòng là thuốc hiệu quả nhất để giảm đau do thần kinh. Nó có thể có một số tác dụng trong điều kiện đau do thụ thể đau, chẳng hạn như đau mãn tính dai dẳng và hội chứng đau xơ cơ và điều kiện kết hợp của nó. Tác dụng giảm đau không phụ thuộc vào hiệu ứng tâm trạng thay đổi. Thuốc chống trầm cảm ba vòng thường có hiệu quả tốt nhất ở các các thử nghiệm lâm sàng đã có.

Tác dụng phụ là buồn ngủ, buồn nôn, táo bón, hạ huyết áp tư thế, khô miệng, tăng nhãn áp góc hẹp, và bí tiểu, đặc biệt là ở người già. Loạn nhịp tim có thể xảy ra ở những người dễ mắc, chẳng hạn như bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim gần đây.

Thuốc chống động kinh

Thuốc chống động kinh được sử dụng như thuốc giảm đau trong đau thần kinh. Pregabalin và Gabapentin được sử dụng thường xuyên hơn phenytoin, sodium valproate, và lamotrigine.

Carbamazepine (Tegretol) là thuốc hữu ích nhất trong các dây thần kinh sinh ba, thiệt hầu, và đau dây thần kinh chẩm.

Gabapentin đã được chứng minh điều trị đau do nguyên nhân thần kinh và thụ thể đau mãn tính, thông qua phong tỏa kênh canxi trong đau thần kinh. Các thể lâm sàng chính mà gabapentin đã được chứng minh là có hiệu quả bao gồm thần kinh ngoại biên bệnh tiểu đường và các đau thần kinh khác.

Pregabalin: là thuốc điều trị tốt nhất đã được chứng minh để giảm đau thần kinh, mặc dù thử nghiệm này trong thời gian ngắn,tác dụng của thuốc thông qua phong tỏa kênh canxi. Các thử nghiệm đã được thực hiện trong đau thần kinh đái tháo đường, đau thần kinh sau zona, đau chấn thương cột sống, đau đột quỵ, và hiện tại hội chứng đau cơ xơ cũng rất hiệu quả.

Lamotrigine:  hữu ích trong đau dây thần kinh sinh ba, đau từ chấn thương cột sống, đau dây thần kinh và đau khác. Một thử nghiệm đã cho thấy lợi ích trong đau đớn sau khi bị đột quỵ. Liều có hiệu quả đã được chứng minh là có khoảng 400 mg/ngày.

Liệu pháp xâm lấn

Nguyên nhân của đau nên luôn luôn được tìm kiếm và xử lý khi điều trị băng thuốc nếu không hiệu quả. Khả năng giới thiệu phẫu thuật thích hợp là nhờ một phần của cách đánh giá ban đầu.

Thủ tục phẫu thuật trên hệ thống thần kinh bao gồm mở cột sống giải ép, kích thích trong chất xám, hạch nền và tủy sống. Được thực hiện tại các trung tâm chuyên ngành

Thăm dò của thần kinh và dây thần kinh/giải ép dây thần kinh bởi chèn ép được thực hiện bởi bác sĩ phẫu thuật có kinh nghiệm trong kỹ thuật, theo dõi lâu dài khả năng hết hẳn là khó đạt được.

Phương phát kích thích điện và các sóng có tần số thấp cũng có hữu ích trong trường hợp lựa chọn của đau chân tay và cột sống. Một đánh giá tâm lý xã hội đầy đủ là bắt buộc trước khi thực hiện ở bệnh nhân bị đau mãn tính không ác tính.

Tiêm trong ống sống (trong màng cứng) phương pháp này phải được quản lý bởi các bác sĩ được đào tạo trong việc sử dụng. Hiện nay, chỉ morphine là loại thuốc được chấp thuận cho mục đích này một cách rộng rãi nhất (nhưng không phải là thuốc duy nhất được chấp nhận)

Tư vấn của các BS về đau mạn tính (Clip)

Tìm hiểu thêm về đau đầu mạn tính

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top