Ngoài ngộ độc do rượu, uống quá nhiều rượu có thể gây mất trí nhớ, động kinh, đau đầu, mất khả năng phối hợp vận động, mất nước và thậm chí gây tử vong. Tình trạng lạm dụng rượu về lâu dài có thể gây tổn thương hệ thần kinh, gan và các hệ cơ quan khác không hồi phục.
Ngoài ra, rượu cũng có thể làm thay đổi mức độ hấp thu của một số chất dinh dưỡng trong cơ thể, bao gồm thiamin (vitamin B1), folat (vitamin B9), vitamin B6 và vitamin B12. Tất cả những dưỡng chất này đều đóng vai trò quan trọng trong chức năng thần kinh.
Các bệnh thần kinh do rượu bao gồm những hội chứng sau:
Phụ nữ là đối tượng có nguy cơ cao gặp phải những tác động tiêu cực của sử dụng rượu như tổn thương thần kinh, khi so sánh với nam giới.
Việc tiêu thụ rượu ở mức độ vừa phải có thể an toàn cho mọi người, tuy nhiên biện pháp tốt nhất vẫn là tránh hoàn toàn uống rượu.
Nguyên nhân chủ yếu của các bệnh thần kinh do rượu đó là tiêu thụ quá nhiều rượu. Theo ước tính, có tới 2/3 đàn ông và 1/2 phụ nữ tại Mỹ có uống rượu.
Khi rượu được đưa vào cơ thể, nó sẽ hấp thu vào máu từ dạ dày và ruột non. Sau đó nó được chuyển hóa bởi gan và đào thải khỏi cơ thể. Gan chỉ có thể chuyển hóa một lượng nhỏ rượu tại một thời điểm. Rượu sẽ tiếp tục được lưu thông trong máu và cuối cùng gây ảnh hưởng đến các hệ cơ quan khác.
Rượu có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với hệ thần kinh trung ương bao gồm cả não bộ và tủy sống. Ngoài ra, nó cũng gây một số tác động tiêu cực đối với hệ thần kinh ngoại biên bao gồm các dây thần kinh truyền tín hiệu đến các bó cơ và các cơ quan.
Ảnh hưởng của rượu đối với não bộ và hệ thần kinh phụ thuộc vào:
Lạm dụng rượu có thể gây ra nhiều tác động trực tiếp và cả gián tiếp đến não bộ và hệ thần kinh. Một số căn bệnh thần kinh do rượu gây ra có thể kể đến:
Bệnh Wernicke-Korsakoff (WKS)
Đây là căn bệnh gây tổn thương não bộ do sự thiếu hụt vitamin B1. Thiếu B1 là tình trạng thường thấy ở những người nghiện rượu. Hội chứng này được phân thành 2 dạng:
Bệnh não Wernicke được đặc trưng bởi bộ ba cổ điển:
Rối loạn tâm thần Korsakoff là một hội chứng mãn tính, thường tiến triển từ bệnh não Wernicke nếu không được điều trị. Các triệu chứng bao gồm:
Bệnh dây thần kinh do rượu
Gây ra khi các dây thần kinh ngoại vi bị hủy hoại bởi việc tiêu thụ quá nhiều rượu và có thể gây những tổn thương không hồi phục. Tình trạng thiếu hụt vitamin B6, B12, thiamin, folat, niacin và vitamin E có thể làm nặng thêm căn bệnh này bởi đây đều là những vitamin vô cùng quan trọng đối với chức năng thần kinh. Các triệu chứng bao gồm:
Hội chứng cai rượu cấp tính
Hội chứng cai rượu cấp tính xảy ra khi một người đang tiêu thụ quá nhiều rượu trong một khoảng thời gian dài bỗng dưng ngừng uống rượu đột ngột. Các triệu chứng có thể xuất hiện chỉ trong vòng 5 giờ sau lần uống cuối cùng và có thể kéo dài tới hàng tuần lễ. Các triệu chứng bao gồm:
Hậu quả nghiêm trọng nhất là chứng cuồng sảng rượu cấp (delirium tremens), có thể gây lú lẫn, thay đổi tâm trạng đột ngột, ảo giác, sốt, tăng thân nhiệt và co giật.
Thoái hóa tiểu não do rượu
Tình trạng này là do các tế bào nơ ron ở tiểu não bị hủy hoại và chết do tác động của rượu. Tiểu não là một phần của não bộ kiểm soát chức năng phối hợp vận động và giữ thăng bằng. Các triệu chứng bao gồm:
Bệnh cơ do rượu
Rượu cũng có tác động tiêu cực đến các bó cơ gây ra bệnh cơ do rượu. Tiêu thụ quá nhiều rượu trong một khoảng thời gian dài cũng có thể gây suy yếu cơ. Căn bệnh này có thể cấp tính và mãn tính, các triệu chứng bao gồm:
Hội chứng ngộ độc rượu ở thai nhi
Hội chứng ngộ độc rượu ở thai nhi là một thuật ngữ được dùng để miêu tả một loạt các vấn đề ảnh hưởng đến các em bé mà nguyên nhân do mẹ uống rượu trong lúc mang thai. Những rối loạn này có biểu hiện từ nhẹ đến nghiêm trọng và có thể gây ra những dị tật về thể chất cũng như trí tuệ và hành vi cho trẻ sơ sinh. Những vấn đề này có thể khởi phát ở bất cứ thời điểm nào trong thời kỳ thơ ấu. Không có giới hạn về lượng rượu tiêu thụ nào được coi là an toàn cho phụ nữ mang thai.
Việc chẩn đoán sớm là vô cùng quan trọng để phòng những tổn thương vĩnh viễn trên hệ thần kinh. Việc hỏi tiền sử bệnh nhân và khảo sát qua một loạt câu hỏi có liên quan đến việc sử dụng rượu có thể giúp chẩn đoán những căn bệnh này. Điều cũng đặc biệt quan trọng là bệnh nhân cần trung thực khi trả lời tất cả những câu hỏi này. Việc chẩn đoán phụ thuộc phần lớn vào việc quan sát các dấu hiệu của tình trạng lạm dụng rượu, bao gồm:
Một số xét nghiệm được thực hiện bởi bác sỹ để làm rõ những nguyên nhân gây ra các triệu chứng trên thần kinh.
Bỏ rượu hoàn toàn là biện pháp điều trị tốt nhất. Bỏ càng sớm thì bạn càng có cơ hội hồi phục cao. Một số người có thể cần phải điều trị nội trú, nhất là những người nghiện rượu nặng. Một số đối tượng khác có thể chỉ cần sự hỗ trợ từ gia đình và bạn bè.
Khi bệnh nhân đã ngừng uống rượu, bác sỹ có thể giải quyết những triệu chứng cụ thể. Mỗi bệnh nhân sẽ có những mục tiêu điều trị khác nhau. Bác sỹ sẽ thiết kế và đưa ra những kế hoạch điều trị cụ thể đối với từng cá nhân.
Việc điều trị có thể bao gồm việc bổ sung vitamin và các thực phẩm chức năng, phương pháp vật lý trị liệu, sử dụng các thuốc kê đơn hay thuốc giảm đau. Sử dụng vitamin B1 đường tĩnh mạch có thể làm giảm các triệu chứng của hội chứng WKS. Chứng cuồng sảng rượu cấp được coi là một tình trạng cần cấp cứu và nằm viện điều trị. Bệnh nhân cũng có thể phải sử dụng thuốc an thần cho tới khi các triệu chứng cai rượu cấp thuyên giảm. Việc chụp não cũng được áp dụng để theo dõi hiệu quả điều trị.
Sự can thiệp sớm và kịp thời của các bác sỹ, gia đình và bạn bè có thể giúp những người nghiện rượu phòng tránh được các căn bệnh trên.
Bản thân bạn nên tự nhận thức được uống bao nhiêu rượu được coi là quá nhiều để giới hạn lượng tiêu thụ. Tiêu thụ rượu mức độ vừa phải được định nghĩa là sử dụng khoảng 1 ly mỗi ngày đối với phụ nữ và 1-2 ly mỗi ngày đối với nam giới. Tuy nhiên biện pháp tốt nhất vẫn là bỏ rượu hoàn toàn.
Các bệnh thần kinh do rượu sẽ ngày càng tiến triển nặng hơn nếu bạn vẫn tiếp tục uống rượu. Tình trạng tổn thương vĩnh viễn hệ thần kinh và các cơ quan trong cơ thể là hậu quả vô cùng nghiêm trọng của lạm dụng rượu. Tổn thương có thể dẫn tới những khuyết tật về thần kinh, gây ra các cơn đau mãn tính và thậm chí tử vong. Loại bỏ rượu hoàn toàn và duy trì một chế độ dinh dưỡng lành mạnh có thể giúp giảm thiểu hậu quả.
Người nghiện rượu có khả năng hồi phục hoàn toàn sau khi cai rượu. Việc này phụ thuộc vào việc căn bệnh được phát hiện sớm đến đâu và mức độ tổn thương của cơ thể. Nó đồng thời cũng phụ thuộc vào ý chí quyết tâm của bệnh nhân. Hầu hết những người nghiện rượu bị tổn thương về mặt tâm thần đều có những cải thiện về chức năng não bộ trong vòng 1 năm sau khi bỏ rượu, một số khác sẽ cần nhiều thời gian hơn.
Với những thông tin trên thì câu hỏi được đặt ra là nên sử dụng rượu như thế nào? Nếu bạn không sử dụng đương nhiên là tốt nhất, còn nếu có "ham vui" thì chúng tôi khuyên nên sử dụng dưới 100ml rượu mạnh (40 gram alcohol) / ngày đối với nam giới tuổi trưởng thành và với phụ nữ là không quá 2/3 mức của nam giới thôi bạn nhé.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh