Tăng tín hiệu chất trắng (White Matter Hyperintensity-WMH):
WMH gặp rất phổ biến trên hình ảnh CT và MRI não của người cao tuổi, và có liên quan đến đột quỵ, suy giảm nhận thức, trầm cảm và rối loạn dáng đi (bệnh Parkinson do nguyên nhân mạch máu). Đây là một thuật ngữ dùng để mô tả các vùng tăng tín hiệu của chất trắng trên T2W hoặc FLAIR, hoặc là các vùng giảm tín hiệu trên CT (Hình 1). Hai loại WMH đã được mô tả dựa trên vị trí của chúng trong não, đó là WMH quanh não thất (tiếp giáp ngay với hệ thống não thất) và WMH sâu (nằm trong vùng dưới vỏ và không tiếp giáp với não thất). Trong y văn, có nhiều từ đồng nghĩa với WMH, như là bệnh chất trắng lan tỏa (leukoaraiosis), biến đổi chất trắng, bệnh thiếu máu cục bộ mạch máu nhỏ...
Hình 1: Tổn thương chất trắng có nguồn gốc mạch máu. Bất thường tín hiệu chất trắng lan rộng quanh não thất (đầu mũi tên) và dưới vỏ (mũi tên) được nhìn thấy trên chụp CT não (A) và MRI não (B và C). Trên CT (A), các bất thường xuất hiện dưới dạng giảm độ trắng chất trắng. Trên MRI, các bất thường xuất hiện dưới dạng tăng tín hiệu chất trắng (WMH) trên T2W (B). Còn trên T1W (C), vài WMH xuất hiện dưới dạng giảm mật độ từ nhẹ đến trung bình nhưng không có tín hiệu giảm mật độ nhiều như dịch não tuỷ.
Tỷ lệ hiện mắc của WMH tăng cấp số nhân theo tuổi, thấp trước tuổi 55 nhưng tăng mạnh sau đó, từ 11% - 21% ở độ tuổi quanh 64 lên 94% ở những người quanh 82 tuổi. Và tỷ lệ này cao hơn ở những người tiếp xúc lâu hơn và ở mức cao hơn với các yếu tố nguy cơ mạch máu, đặc biệt là tuổi cao, tăng huyết áp và đái tháo đường. WMH phổ biến hơn ở những người bị đột quỵ, sa sút trí tuệ, đau nửa đầu, hoặc trầm cảm muộn, nhưng không gặp ở những người trẻ hơn mắc bệnh lưỡng cực hoặc tâm thần phân liệt.
Hiện nay, việc ước tính thể tích WMH trên MRI được coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán. Tỷ lệ hiện mắc WMH là 12% - 17% phụ thuộc vào chuổi MRI và phương pháp đo WMH được sử dụng. Để chuẩn hóa cách đánh giá mức độ WMH trên một phạm vi rộng, có một số thang điểm dễ sử dụng đã được phát triển. Trong số đó, thang điểm Fazekas có lẽ hữu dụng nhất (hình 2)
Hình 2: Thang điểm Fazekas đánh giá WMH. WMH quanh não thất được phân loại như sau: 0 = không có tổn thương, 1 = tổn thương dạng như chópmũ hoặc lớp lót mỏng như bút chì, 2 = tổn thương quầng mịn, và 3 = WMH quanh não thất, không đều, kéo dài đến chất trắng sâu. WMH sâu (dưới vỏ) được phân loại như sau: 0 = không có, 1 = các tổn thương dạngdấu chấm, 2 = bắt đầu liên kết các tổn thương dạng chấm, và 3 = vùng tổn thương lớn.
Khác với nhồi máu não thầm lặng (SBI), sinh lý bệnh của WMH ít được biết đến. Thiếu máu cục bộ, nhồi máu, viêm, tăng tính thấm thành mạch và suy tĩnh mạch đều có thể là nguyên nhân của WMH. Có thể WMH là do một con đường sinh lý bệnh duy nhất mà cũng có thể là kết quả chung của một số rối loạn sinh lý bệnh.WMH chỉ liên quan yếu với các thông số cận lâm sàng của bệnh động mạch cảnh do xơ vữa, và không hay gặp ở bên hẹp động mạch cảnh của những bệnh nhân bệnh động mạch cảnh có triệu chứng.
Điều trị dự phòng
Cần tuân theo các hướng dẫn của AHA/ASA về dự phòng đột quỵ tiên phát để ngăn ngừa đột quỵ có triệu chứng ở những người bị WMH. Bác sĩ lâm sàng cũng nên biết rằng gánh nặng WMH cao hơn dự báo tăng nguy cơ đột quỵ có triệu chứng sau này ngay cả khi đã kiểm soát được các yếu tố nguy cơ mạch máu. Điều trị THA dường như là liệu pháp hứa hẹn nhất để dự phòng WMH, và nó có thể làm chậm sự tiến triển của WMH ở những bệnh nhân có nguy cơ mạch máu cao. Tuy nhiên, cần quan tâm nguy cơ té ngã ở những bệnh nhân giảm huyết áp quá mạnh vì WMH có liên quan đến rối loạn dáng đi và thăng bằng. Và thật không rõ, liệu sự hiện diện của WMH có ảnh hưởng đến việc lựa chọn đích huyết áp ở người cao tuổi hay không? Còn với statin, liệu pháp này có làm giảm sự tiến triển của WMH hay không thì chưa rõ. Điều trị hạ đường huyết tích cực ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 không làm giảm sự tiến triển của WMH, và trên thực tế có liên quan đến sự tiến triển của WMH cao hơn vì những lý do không rõ. Vitamin B và folate không làm giảm sự tiến triển của WMH mặc dù có giảm đáng kể tiến triển của WMH ở những bệnh nhân WMH nặng lúc ban đầu (0,3 so với 1,7 cm3; P = 0,04). Ngoài ra, dữ liệu từ các phân tích hậu kiểm trong các nghiên cứu dự phòng thứ phát cho thấy bệnh nhân WMH có thể tăng nguy cơ xuất huyết não khi điều trị bằng thuốc chống huyết khối. Và WMH nặng là một yếu tố dự báo độc lập biến cố xuất huyết liên quan đến thuốc chống đông.