Theo TS Lars Vedel Kaken, Đại học Copenhagen ở Đan Mạch, tác giả nghiên cứu, cơ chế liên quan đến việc giảm nguy cơ trầm cảm có thể do tác dụng chống viêm của 9 loại thuốc này. Tuy nhiên cần có những nghiên cứu thêm, nhưng phát hiện có thể giúp ích cho các bác sĩ khi lựa chọn thuốc điều trị tăng huyết áp ở những bệnh nhân bị trầm cảm hoặc có nguy cơ cao bị trầm cảm.
Nghiên cứu mới bao gồm 5,4 triệu người ở Đan Mạch vào năm 2005 và theo dõi kết quả sức khỏe của họ cho đến tháng 12 năm 2015. Trong thời gian đó, gần 3,75 triệu người được kê đơn thuốc trị tăng huyết áp. Bốn nhóm thuốc chính được sử dụng để điều trị huyết áp cao: Thuốc angiotensin; thuốc đối kháng canxi, thuốc chẹn beta và thuốc lợi tiểu.
Thuốc lợi tiểu được kê đơn phổ biến nhất. Hơn 1,1 triệu người đã được kê đơn thuốc lợi tiểu. Thuốc Angiotensin (bao gồm thuốc ức chế ACE và ARB) là loại thuốc trị tăng huyết áp được kê đơn phổ biến thứ hai, với chỉ hơn một triệu đơn thuốc. Thuốc đối kháng canxi được kê hơn 830.000 lần, tiếp theo là thuốc chẹn beta với gần 780.000 đơn thuốc.
Các nhà nghiên cứu đã xem xét 41 loại thuốc trong bốn nhóm này và không thấy có liên quan đến việc tăng nguy cơ trầm cảm. Trên thực tế, một vài loại thuốc trong mỗi nhóm - tổng cộng 9 loại thuốc - có liên quan đến việc giảm nguy cơ trầm cảm.
9 thuốc làm giảm nguy cơ trầm cảm bao gồm: Enalapril (vasotec), ramipril (altace), amlopidine (norvasc), verapamil (verelan), thuốc kết hợp verapamil, propranolol (inderal), atenolol (tenormin), bisoprolol (zebeta) và carvedilol (coreg).
Theo các nhà khoa học, cách tiếp cận khoa học của nghiên cứu này cho thấy, nhiều loại thuốc điều trị tăng huyết áp có thể giúp giảm các triệu chứng trầm cảm ở một số người. Giảm viêm có thể đóng một vai trò trong việc làm giảm nguy cơ trầm cảm. Giảm viêm có tác động tích cực đến sức khỏe thể chất và tinh thần của một người và là một cơ chế quan trọng cho các nghiên cứu trong tương lai.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh