Do tim đập nên dòng màu chảy qua mạch sẽ không ổn định mà sẽ theo từng nhịp, và dòng chảy của máu cũng như áp lực lên thành mạch sẽ dao động theo từng thời điểm.
Vì lý do này, chỉ số huyết áp của một người thường có hai con số khác nhau, gọi là huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương. Hai con số này biểu thị các điểm áp lực lên mạch máu khác nhau khi máu được bơm vào các mạch máu.
Chỉ số huyết áp:
Cả áp lực tâm thu và tâm trương đều quan trọng. Nếu chỉ số huyết áp cao thì có thể bạn đang bị cao huyết áp. Còn nếu chỉ số huyết áp quá thấp thì có thể đang không có đủ máu bơm đến các cơ quan trọng yếu như não.
Áp lực gây ra bởi dòng máu chảy qua mạch máu không phải một hằng số mà có thể biến đổi và luôn biểu thị chức năng của tim.
Khi tim đang hoạt động tích cực (trong thì tâm thu), tim sẽ đẩy máu vào động mạch. Điều này làm cho áp lực lên thành mạch tăng lên. Áp lực đạt đỉnh khi tim co và đẩy máu đi gọi là huyết áp tâm thu.
Huyết áp tâm thu bình thường khi một người ngồi yên là 120 mmHg hoặc thấp hơn.
Huyết áp tâm thu cao
Khi một người đang tập luyện, đang bị căng thẳng, hoặc bất cứ lúc nào khi tim bị kích thích đập mạnh hơn lúc nghỉ ngơi, lực co bóp của tim tăng lên - và áp lực tâm thu tăng lên. Sự gia tăng huyết áp tâm thu xảy ra trong những tình trạng này là hoàn toàn bình thường. Điều này giải thích tại sao việc đo huyết áp trong thời gian nghỉ ngơi trước khi chẩn đoán tăng huyết áp là rất quan trọng.
Huyết áp tâm thu thấp
Khi huyết áp tâm thu thấp hơn bình thường, đây được gọi là hạ huyết áp tâm thu. Hạ huyết áp tâm thu đủ nặng có thể gây chóng mặt, choáng váng, ngất, hoặc nếu kéo dài có thể gây suy tạng. Hạ huyết áp tâm thu có thể xảy ra nếu lượng máu trở nên quá thấp như khi mất nước nghiêm trọng hoặc chảy máu nặng, nếu cơ tim trở nên quá yếu để đẩy máu, thường gặp trong bệnh cơ tim hoặc nếu các mạch máu bị giãn quá mức. Một tình trạng phổ biến gây hạ huyết áp tâm thu là hạ huyết áp tư thế đứng.
Huyết áp tâm trương là áp lực mà máu tác động lên các mạch giữa các nhịp tim, nghĩa là khi tim không bơm máu vào động mạch. Sau khi tim kết thúc một lần co bóp tống máu đi, tâm thất thư giãn trong giây lát để được nạp lại máu, chuẩn bị cho cơn co tiếp theo. Giai đoạn tâm thất giãn tạm thời này được gọi là tâm trương, và huyết áp trong thì tâm trương được gọi là huyết áp tâm trương.
Huyết áp tâm trương bình thường, cao và thấp:
Mức huyết áp phụ thuộc vào hoạt động của tim và độ đàn hồi của động mạch và như ta đã thấy, huyết áp luôn biến động và đang tích cực thay đổi từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác khi tim quay vòng giữa thì tâm thu và tâm trương.
Ngoài ra, huyết áp tâm thu và tâm trương của bạn có thể thay đổi đáng kể từ phút này sang phút khác tùy thuộc vào trạng thái hoạt động, trạng thái căng thẳng, lượng nước của cơ thể và một số các yếu tố khác.
Điều này có nghĩa là, để chẩn đoán chính xác bệnh tăng huyết áp, điều quan trọng là phải kiểm soát càng nhiều yếu tố bên ngoài càng tốt. Tiêu chuẩn được các chuyên gia khuyên dùng là việc đo huyết áp phải được thực hiện trong một môi trường yên tĩnh, ấm áp sau khi bạn nghỉ ngơi yên tĩnh trong ít nhất năm phút. Đo huyết áp theo cách này là một thách thức trong các phòng khám, bị quấy rầy ngày nay, khiến cho việc chẩn đoán chính xác bệnh tăng huyết áp trở thành một thách thức nhiều hơn. Đây là lý do tại sao hầu hết các chuyên gia ngày nay khuyên bạn nên ghi lại huyết áp trong một thời gian dài, cùng các theo dõi chỉ số trên xe cấp cứu, trước khi đưa ra chẩn đoán tăng huyết áp.
Áp lực máu tâm thu và tâm trương đại diện cho áp lực trong các mạch máu trong các phần khác nhau của chu kỳ tim. Đo chính xác cả hai giá trị này rất quan trọng trong chẩn đoán và kiểm soát tăng huyết áp.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh