Tăng áp động mạch phổi được định nghĩa theo huyết động được chấp nhận rộng rãi là áp lực động mạch phổi trung bình lớn hơn 25mmHg lúc nghỉ hoặc lớn hơn 30mmHg khi gắng sức với áp lực nhĩ trái hoặc áp lực mao mạch phổi nhỏ hơn 15mmHg. Thông tim phải là tiêu chuẩn vàng chẩn đoán tăng áp động mạch phổi vì siêu âm tim có thể thiếu chính xác để xác định áp lực động mạch phổi và, hơn nữa, không có phương tiện đo áp lực động mạch phổi trung bình.
Các dấu hiệu lâm sàng thường gặp nhất bao gồm:
Tại Hội nghị Quốc tế lần thứ 3 về tăng áp phổi tại Venice (2003), cụm từ tăng áp phổi nguyên phát được thay thế bằng phân độ mới theo Bảng 62-1. Tăng áp phổi được phân chia thành: tăng áp động mạch phổi, tăng áp tĩnh mạch phổi, tăng áp phổi kèm giảm oxy máu, tăng áp phổi do bệnh lý huyết khối hoặc thuyên tắc mạn tính, và những nguyên nhân khác.
Bảng 62-1: hội nghị thế giới lần thứ ba về tăng áp phổi – Phân loại tăng áp phổi |
NHÓM I: Tăng áp động mạch phổi
NHÓM II: Tăng áp tĩnh mạch phổi
NHÓM III: Tăng áp phổi đi kèm với giảm oxy máu
NHÓM IV: Tăng áp phổi kèm bệnh lý huyết khối hoặc thuyên tắc mạn tính
NHÓM V: các nhóm khác
|
Khoảng 6% bệnh nhân tăng áp động mạch phổi có tăng áp phổi gia đình. Đột biến trong mã hóa gene qui định hình thái xương (BMPR2) được tìm thấy trong khoảng 50% gia đình có tăng áp phổi gia đình và trong 25% bệnh nhân có tăng áp phổi riêng rẽ. Vì mức độ thâm nhập của gene này thấp, nên hầu hết bệnh nhân có đột biến này chưa hề mắc bệnh. Cá thể với đột biến gene này có 10-20% nguy cơ mắc phải tăng áp động mạch phổi gia đình.
Đánh giá lâm sàng nên bắt đầu với việc hỏi bệnh và thăm khám lâm sàng. Các nguyên nhân tăng áp phổi thứ phát có thể phát hiện được qua hỏi bệnh. Ngoài ra, nên lưu ý cư dân hay khách du lịch tới vùng dịch tể của sán máng. Tất cả các bệnh nhân đều cần được đánh giá tầm soát cơ bản, bao gồm huyết thanh chẩn đoán các bệnh lý tạo keo mạch máu, HIV, X quang ngực, đo chức năng hô hấp, chụp cắt lớp thông khí-tưới máu phổi (V/Q), điện tâm đồ và siêu âm tim.
Bệnh nhân nào chưa tìm được nguyên nhân khi khai thác bệnh sử và khám lâm sàng cần sự đánh giá chi tiết hơn, những bệnh nhân nghi ngờ có nguyên nhân gây tăng áp phổi thứ phát cần có đánh giá tập trung xác định nguyên nhân đó. Ngoài những xét nghiệm trên, khí máu động mạch và chụp mạch máu phổi có thể được chỉ định. Việc chụp mạch máu phổi nên được đảm nhận bởi người có kinh nghiệm điều trị bệnh nhân tăng áp phổi.
Việc đánh giá tình trạng chức năng của bệnh nhân cũng nên được thực hiện (Bảng 62-2)
Những bệnh lý mô liên kết nào thường gây tăng áp phổi nhất?
Mặc dù tăng áp phổi xảy ra ở cả hai nhóm giới tính và mọi lứa tuổi, nhưng bệnh thường ảnh hưởng đến phụ nữ trẻ. Tỷ lệ nữ/nam là 1.7:1
Chụp mạch máu phổi giúp chẩn đoán xác định và đánh giá khả năng phẫu thuật đối với bệnh nhân có tăng áp phổi và chụp thông khí – tưới máu phổi gợi ý bệnh lý huyết khối thuyên tắc mạn tính. Hiện nay có thể phẫu thuật lấy huyết khối ở đoạn gần động mạch phổi đối với những bệnh nhân tăng áp phổi thứ phát do huyết khối thuyên tắc mạn tính. Tỷ lệ tử vong phẫu thuật thấp ở hầu hết các trung tâm, kháng đông suốt đời và đặt màng lọc tĩnh mạch chủ dưới khá hiệu quả đối với các bệnh nhân này.
Theo NIHR, trước đây bệnh nhân tăng áp phổi nguyên phát có tỷ lệ sống còn trung bình là 2.8 năm kể từ ngày được chẩn đoán. Với những phương pháp điều trị mới, tỷ lệ sống còn tăng đáng kể. Theo số liệu tại Pháp, tỷ lệ sống còn 1 năm hiện nay là 88%.
Điều trị cơ bản bao gồm:
Ức chế kênh canxi chỉ sử dụng trên bệnh nhân thông tim phải, ghi nhận có đáp ứng giãn mạch với thuốc giãn mạch tác dụng ngắn. Điều này xuất hiện trong 6% bệnh nhân tăng áp phổi, 50% trong số này có thể duy trì đáp ứng. Ức chế canxi không nên sử dụng theo kinh nghiệm mà không có chứng cứ thuyết phục về phản ứng giãn mạch. Nếu bệnh nhân có đáp ứng với thuốc giãn mạch, điều này tiên đoán sẽ có đáp ứng với ức chế canxi. Tỷ lệ sống còn sau 1-, 3-, 5- năm của bệnh nhân có đáp ứng với ức chế canxi là 94%, 94% và 94%, so sánh một cách tương đối với 68%, 47% và 38% với nhóm đối tượng không đáp ứng. Nếu bệnh nhân không đáp ứng với thuốc giãn mạch, nên xem xét đến việc điều trị với endothelin receptor antagonist, ức chế men phostodiesterase-5, hay prostacyclin.
Áp lực động mạch phổi trung bình giảm ít nhất 10mmHg và thấp hơn 40mmHg với cung lượng tim tăng hoặc không thay đổi được xem như là có đáp ứng. Những bệnh nhân này nên được xem xét sử dụng ức chế kênh canxi dạng uống. Những thuốc được dùng để đánh giá hoạt động giãn mạch bao gồm truyền tĩnh mạch adenosin hoặc epoprostenol, và nitric oxide dạng hít.
Hiện nay, 6 thuốc điều trị được FDA chấp nhận dựa trên 3 cơ chế bệnh sinh liên quan đến tăng áp phổi.
Vì đây là những chất giãn mạch không chọn lọc, nên biến chứng thường gặp là hạ huyết áp hệ thống. Những tác dụng phụ khác thường gặp bao gồm đỏ bừng mặt, nhức đầu, nôn, tiêu chảy, đau chân, đau hàm. Vì prostacyclin tĩnh mạch cần một đường truyền tĩnh mạch trung tâm, nên biến chứng nhiễm trùng đường truyền và huyết khối do catheter thường gặp. Chăm sóc cẩn thận catheter và dùng kháng đông giúp làm giảm các nguy cơ trên, tuy nhiên vẫn có khả năng xuất hiện tình cờ các biến chứng nặng và đe dọa tính mạng.
Tăng áp phổi là biến chứng thường gặp, đe dọa tính mạng của hội chứng Crest và là nguyên nhân gây nên tử xuất và bệnh xuất đáng kể của bệnh này. Thuốc giãn mạch đường uống hầu như không hiệu quả trong điều trị tăng áp phổi kèm hội chứng Crest. Hiện nay, truyền prostacyclin tỏ ra cải thiện được tình trạng chức năng trên bệnh nhân hội chứng Crest kèm tăng áp phổi, và ngày càng được áp dụng thường xuyên trên lâm sàng.
Có. Ghép phổi là một điều trị bổ sung, đặc biệt đối với bệnh nhân không đáp ứng với điều trị tích cực. Kết hợp ghép phổi và tim hiện không cần thiết vì chức năng thất phải được hồi phục sau ghép phổi. Thường thì ghép tim – phổi cần thiết đối với bệnh nhân có khiếm khuyết tim bẩm sinh không sửa chữa và hội chứng Eisenmenger.
Tài liệu tham khảo, tài liệu nên đọc và websites: