✴️ Điều cần biết về polyp mũi

Tình trạng viêm nhiễm mạn tính khiến cho tính thấm ở các xoang tăng cao, dần dần dẫn tới sự tích tụ nước ở các tế bào. Cuối cùng trọng lực sẽ kéo các mô ứ đầy nước xuống dưới, và tạo thành polyp.

Sơ lược về giải phẫu và sinh lý mũi

Giải phẫu mũi: gồm có tháp mũi và hốc mũi.

Tháp mũi: như một mái che kín hốc mũi, có khung là xương chính mũi, ngành lên xương hàm trên, sụn cánh mũi và sụn uốn quanh lỗ mũi.

Hốc mũi: vách ngăn chia hốc mũi thành hốc mũi phải và hốc mũi trái, là hai khoảng thông từ trước ra sau. Phía trước có hai lỗ mũi, phía sau có hai cửa mũi sau. Mỗi hốc mũi có 4 thành:

- Thành trên: trần của hốc mũi, ngăn cách hốc mũi với sọ não.

- Thành dưới: sàn mũi, ngăn cách mũi với miệng.

- Thành trong:  vách ngăn mũi.

- Thành ngoài: có 3 xương uốn cong (xương xoăn) theo thứ tự trên, giữa, dưới.

Ba xương xoăn được lớp niêm mạc bao phủ bên ngoài mang tên: cuốn mũi trên, cuốn mũi giữa và cuốn mũi dưới. Mỗi một cuốn mũi hợp với thành ngoài của hốc mũi tạo thành một khe mũi hay ngách mũi. Ngách mũi dưới ở đầu có lỗ thông của ống lệ tỵ, ống này từ túi lệ xuống. Ngách mũi giữa là nơi thông ra hốc mũi của các xoang hàm, sàng trước và xoang trán. Ngách mũi trên là nơi thông ra hốc mũi của các xoang sàng sau, còn xoang bướm có lỗ thông trực tiếp ra phần trên và sau của hốc mũi.

Loa vòi ở cách đuôi cuốn mũi giữa hơn 1cm vào phía sau và hơi chếch xuống dưới. Sau đuôi cuốn mũi trên có lỗ bướm khẩu cái, ở đó thoát ra động mạch bướm khẩu cái và dây thần kinh bướm khẩu cái (nhánh mũi). Từ lưng cuốn mũi giữa trở lên niêm mạc mũi chứa những tế bào khứu giác.

Sinh lý mũi: mũi có chức năng: hô hấp, phát âm và ngửi.

Hô hấp: chức năng chính, thành bên của hốc mũi giữ vai trò cơ bản trong trong sinh lý hít vào. Mũi làm ấm, ẩm và làm sạch không khí thực hiện được là nhờ niêm mạc mũi, có hệ thống niêm mạc biểu mô trụ đơn có lông chuyển với các tế bào tiết, với cấu trúc rất giàu mạch máu. Lớp nhầy này bắt giữ các vật lạ để lớp tế bào lông chuyển di chuyển chúng ra phía sau mũi với nhịp độ từ 400 - 800 nhịp/phút. Hệ thống màng nhầy này hoạt động rất hiệu quả, nó bảo vệ lớp biểu mô của mũi, tuy nhiên cũng dễ bị ảnh hưởng do viêm nhiễm, độ ẩm, hóa học, bụi, vi sinh, vi khuẩn, nấm mốc...

Hệ thống tế bào ở hạ niêm mạc, sản sinh ra các thực bào và dịch thể miễn dịch như các loại IgE, IgG, IgA, IgM...

Ngửi: được thực hiện bởi niêm mạc ngửi nằm ở phần cao của hốc mũi, với các tế bào thần kinh cảm giác và đầu tận của thần kinh khứu giác, trên diện tích 2 - 3cm2 còn gọi là điểm vàng. Để ngửi được không khí phải đến được vùng ngửi. Các chất có mùi phải được hoà tan trong lớp màng nhầy trên tế bào cảm giác thì mới tạo được kích thích tới dây thần kinh khứu giác.

Phát âm: mũi có tác động đến giọng nói, tạo âm sắc, độ vang của giọng. Khi hốc mũi bị bịt kín hoặc tịt lỗ mũi sau hay trước, giọng nói sẽ mất độ vang, thay đổi âm sắc được gọi là giọng mũi kín.

Khái quát chung về polyp mũi

Do các khối polyp mũi thường mềm nên nếu có mà kích thước nhỏ, rất có thể người bệnh hoàn toàn không biết mình mắc bệnh.

Trường hợp polyp nhỏ và đơn độc thường sẽ không có biến chứng và cũng không ảnh hưởng gì nhiều đến sức khỏe bệnh nhân. Ngược lại, polyp lớn hoặc quá nhiều polyp, đa polyp xuất hiện tại khe mũi, hốc mũi làm cản trở sự lưu thông khí qua mũi, gây nghẹt mũi liên miên, chảy mũi, giảm mùi.

Lâu dài gây tình trạng hốc mũi bị giãn rộng, polyp lòi ra cửa mũi trước, thòng vào cửa mũi sau, phá hỏng xương hốc mũi làm xương hốc mũi mỏng như vỏ quả bóng bàn, lấy tay ấn vào có hiện tượng lõm khi bỏ tay ra thành xương lại bật lên. Thay đổi hình dạng hốc mũi, làm cho mũi không còn chiều cao.

Các biến chứng đặc trưng như viêm xoang cấp, mãn tính, ngưng thở hoặc khó thở khi ngủ, thậm chí là biến đổi cấu trúc mặt gây song thị (nhìn đôi), 2 mắt xa nhau bất thường.

Nguyên nhân gây polyp mũi

Đường mũi và xoang được lót bằng lớp màng nhầy, mô tiết ra chất dịch dính (chất nhờn). Màng này có chứa nhiều mạch máu nhỏ và được bao phủ trong các cấu trúc nhỏ giống như tóc gọi là lông mao.

Khi hít vào, đường mũi và xoang cung cấp một loại lối với rất nhiều “ngóc ngách và vết nứt”, nơi không khí có thể được làm nóng và làm ẩm trước khi đi đến phổi. Không khí cũng được làm sạch. Các hạt nhỏ xíu trong không khí dính vào các chất nhầy, và các lông mao quét ra phía trước mũi hoặc sau của cổ họng.

Phát triển polyp mũi:

Polyp mũi có thể hình thành khi các màng nhầy của đường mũi và xoang bị viêm kinh niên. Một điều kiện mũi hoặc xoang thường được định nghĩa như là mạn tính nếu các dấu hiệu và triệu chứng của viêm nhiễm kéo dài hơn 12 tuần.

Polyp mũi có thể phát triển bất cứ nơi nào trên khắp đường mũi, xoang, nhưng xuất hiện thường xuyên nhất ở gần các lỗ của các xoang.

Yếu tố nguy cơ:

Bất kỳ điều kiện góp phần vào tình trạng viêm mạn tính ở đường mũi hoặc xoang, chẳng hạn như nhiễm trùng hoặc dị ứng, có thể làm tăng nguy cơ polyp mũi. Điều kiện thường liên kết với polyp mũi bao gồm:

- Hen suyễn - nguyên nhân gây viêm và tắc nghẽn của đường hô hấp.

- Nhạy cảm aspirin, như phản ứng dị ứng với aspirin hoặc chống viêm không steroid khác - chẳng hạn như ibuprofen (Advil, Motrin) và naproxen (Aleve).

- Nấm, dị ứng, viêm xoang, dị ứng với nấm trong không khí.

- Xơ nang, rối loạn di truyền có kết quả trong sản xuất và tiết ra chất dịch bất thường, bao gồm cả chất nhầy từ màng mũi và xoang.

- Hội chứng Churg - Strauss, một căn bệnh hiếm gặp gây ra các viêm mạch máu.

Yếu tố nguy cơ khác bao gồm:

- Tuổi: polyp mũi là phổ biến hơn ở người lớn.

- Lịch sử gia đình: có một số bằng chứng có thể kế thừa một gen hoặc những gen làm cho nhiều khả năng phát triển polyp mũi.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top