Những gì chúng ta biết cho đến nay là có ít nhất năm vắc-xin (Biontech / Pfizer, Moderna, Oxford / Astrazeneca, Novovax, Johnson & Johnson) làm giảm số lượng người mắc bệnh do Covid-19; Các vắc-xin dường như giúp ngăn ngừa cả triệu chứng covid-19 nhẹ / trung bình và nặng. 03 trong số các loại vắc-xin này (BIONTECH / PFIZER, Moderna, Oxford / Astrazeneca) hiện đã được phê duyệt sử dụng ở Anh. Chúng tôi chưa biết liệu bất kỳ loại vắc-xin nào trong số này có thể giúp phòng ngừa nhiễm bệnh hay chúng vẫn không thể ngăn chặn được sự lây nhiễm của vi-rút. Các nhóm nghiên cứu của AstraZeneca và Moderna đang đánh giá tỷ lệ nhiễm bệnh không có triệu chứng và tỷ lệ lây truyền của vi-rút sau tiêm chủng, để tìm hiểu liệu tiêm chủng vắc-xin có ảnh hưởng đến sự lây nhiễm. Một khi vắc-xin được sử dụng rộng rãi, các nhà dịch tễ học sẽ có thể ước tính mức độ tổng thể về việc giảm lây truyền của vắc xin.
Các dữ liệu về tính hiệu quả của vắc xin đã được công bố cho đến nay mới chỉ là các phân tích tạm thời, về hiệu quả của vắc-xin, chưa có dữ liệu có sẵn nào cho thấy mối tương quan với khả năng bảo vệ * sau tiêm chủng. Tất cả các nhóm thử nghiệm vắc-xin sẽ tìm hiểu về vấn đề này vào giai đoạn cuối của nghiên cứu, khi có nhiều dữ liệu hơn.
Các nghiên cứu quan sát về nhiễm SARS-COV-2 cũng như dữ liệu từ các thử nghiệm vắc-xin đang bắt đầu cung cấp bằng chứng cho thấy sự gia tăng mạnh nồng độ của kháng thể trung hòa * và tế bào T đặc hiệu với vi-rút * giúp bảo vệ chống lại bệnh.
Có, giống như dự đoán những người lớn tuổi và người bị suy giảm miễn dịch không thể tạo ra đáp ứng miễn dịch tốt sau nhiễm SARS-COV-2, tương tự đối với vắc-xin so với người trưởng thành khỏe mạnh. Tuy nhiên, các nhóm nghiên cứu của PFIZER / BIONTECH, Moderna và Oxford / Astrazeneca đã đánh giá về yếu tố tuổi và phát hiện ra rằng vắc-xin tạo ra phản ứng miễn dịch tương tự ở người lớn tuổi so với những người trẻ tuổi. Dữ liệu về tính hiệu quả ở người lớn tuổi hiện tại còn rất hạn chế, nhưng điều này sẽ tiếp tục được đánh giá trong thời gian tới. Không có thử nghiệm giai đoạn III nào có bao gồm những người bị suy giảm miễn dịch, do đó, không có dữ liệu để đánh giá đáp ứng hoặc hiệu quả miễn dịch ở các nhóm này, nhưng tiêm chủng vẫn được khuyến cáo ở những người mắc phải suy giảm miễn dịch có nguy cơ cao mắc phải SARS-CoV-2.
Chúng ta hiện chưa biết được, nhưng dữ liệu về miễn dịch được công bố về bệnh này cho thấy khả năng miễn dịch sẽ kéo dài ít nhất một năm. Do đó, trường hợp xấu nhất là chúng ta cần phải tiêm chủng nhắc lại đối với những người có nguy cơ cao mắc bệnh nặng hàng năm. Vì chúng ta đã có chương trình tiêm chủng vào mùa đông hàng năm cho bệnh cúm, nên đây sẽ là một đề xuất khả thi. Sự xuất hiện của các chủng SARS-COV-2 mới cũng làm cho các vắc-xin hiện tại trở nên kém hiệu quả hơn theo thời gian (mặc dù các chủng đột biến hiện tại được cho là vẫn còn nhạy cảm với các vắc-xin hiện tại). Do đó, vắc-xin trong tương lai có thể đòi hỏi phải được tinh chỉnh định kỳ để chống lại các chủng vi-rút đang lưu hành một cách hiệu quả nhất. Một lần nữa, đây không phải là một vấn đề lớn vì chúng ta vẫn tiến hành cải thiện vắc-xin cúm mỗi năm để chống lại các chủng biến thể cúm hiện hành.
Miễn dịch cộng đồng đạt được khi khả năng lây truyền của vi-rút trong một nhóm dân số giảm rõ rệt do những người đã tạo ra miễn dịch chiếm tỷ lệ cao trong dân số. Nếu đảm bảo đủ người dân trong dân số đạt được miễn dịch, vi-rút vẫn ở có thể tồn tại ở ngưỡng thấp hoặc không thể phát hiện, do đó điều này giúp bảo vệ được những người chưa được tiêm phòng (ví dụ: trẻ sơ sinh), những người không thể tự tạo được đáp ứng miễn dịch tốt (ví dụ như những người có sức khỏe yếu, người cao tuổi hoặc người bị suy giảm miễn dịch), hoặc những người bị dị ứng với các thành phần của vắc-xin.
Điều quan trọng để một loại vắc-xin có thể mang lại khả năng miễn dịch cộng đồng là nó phải làm dừng hoặc giảm đáng kể việc lây truyền. Nếu vắc-xin chỉ giúp ngăn ngừa các triệu chứng nhưng không giúp giảm lây truyền bệnh, nó không thể mang lại khả năng miễn dịch cộng đồng (vì những người đã tiêm vắc-xin, bản thân sẽ không gặp phải các triệu chứng của bệnh Covid-19 nhưng vẫn có thể tiếp tục bị nhiễm bệnh và tiếp tục lây truyền vi-rút).
Tỷ lệ dân số tạo ra được miễn dịch, hoặc không thể mắc bệnh, để ngăn ngừa sự lây truyền phụ thuộc vào khả năng nhiễm bệnh của mầm bệnh đó (nó có dễ lây lan hay không?), thời gian nhiễm bệnh (chỉ một vài ngày hoặc nhiều tháng hoặc năm?) và liệu mọi người có biết họ bị nhiễm bệnh / có khả năng lây nhiễm (họ thường có triệu chứng hay không?).
Về bản chất, số người đòi hỏi phải có khả năng tạo ra được miễn dịch được tính toán từ một công thức toán học phụ thuộc vào giá trị R0 của vi-rút. Trong trường hợp SARS-COV-2 và hiệu quả của vắc-xin ~ 95%, ước tính cần có 63-75% người dân được miễn dịch để tạo ra khả năng miễn dịch cộng đồng, để đạt được điều này chúng ta cần số lượng người sử dụng vắc-xin lớn, hoặc khả năng tạo ra miễn dịch tự nhiên rộng rãi sau khi nhiễm bệnh.
Các loại vắc xin đang được phê duyệt hiện nay đã được chứng minh là có thể giảm nguy cơ nhiễm COVID-19 một cách hiệu quả, do đó chúng cũng sẽ làm giảm thiểu nguy cơ ảnh hưởng lâu dài của COVID-19.
Một số bệnh nhân gặp phải các ảnh hưởng kéo dài sau nhiễm COVID lo lắng về việc chủng ngừa, có thể vì họ cảm thấy cơ thể họ không tạo đủ đáp ứng miễn dịch với bệnh nhiễm trùng tự nhiên, do đó việc chủng ngừa sẽ không mang lại lợi ích, hoặc vì họ nghi ngờ cơ thể họ có thể đã phản ứng quá mức hoặc rối loạn điều tiết đối với nhiễm trùng tự nhiên và chúng có thể trở nên trầm trọng hơn bởi kích thích miễn dịch. Chúng ta chưa có bất kỳ dữ liệu nào để xác nhận hoặc bác bỏ những nghi ngờ này, nhưng những dữ liệu này sẽ xuất hiện trong vài tháng tới khi ngày càng có nhiều người gặp phải các ảnh hưởng kéo dài sau nhiễm COVID được tiêm chủng. Tại thời điểm này, giả định được đưa ra là, giống như những người khác, những người gặp phải các ảnh hưởng kéo dài sau nhiễm COVID sẽ hưởng lợi ích giảm nguy cơ tái nhiễm nếu được tiêm chủng.
Bằng chứng từ vắc-xin của AstraZeneca / Oxford cho thấy khoảng cách giữa các liều vắc-xin dài hơn giúp cải thiện khả năng miễn dịch. Không có bằng chứng tương tự đối với vắc-xin Pfizer / BioNTech, nhưng chúng tôi không cho rằng khả năng miễn dịch sẽ giảm. Đối với tất cả các loại vắc xin COVID hiện có, điều quan trọng là mọi người phải tiêm hai liều vắc xin để tối đa hóa khả năng miễn dịch được tạo ra.
Kiến thức của chúng ta về hệ thống miễn dịch cho phép chúng ta giả định rằng vắc xin vẫn có hiệu quả chống lại các chủng biến thể nhỏ của vi-rút. Các đáp ứng của kháng thể *, tế bào B * và tế bào T * được tạo ra sau khi tiêm chủng là vô cùng đa dạng và chúng giúp nhận biết các phần khác nhau của protein đột biến của vi-rút. Vì vậy, sự thay đổi ở một phần của protein có thể dẫn đến một vài loại kháng thể * và tế bào T * sẽ không còn khả năng nhận diện vi-rút nữa nhưng sẽ có một phần (dù hiện tại chúng ta chưa rõ là bao nhiêu) của phản ứng miễn dịch sẽ vẫn còn hiệu quả.
Tại thời điểm bài viết này, có ba chủng biến thể cần quan tâm. B.1.351 (phát hiện đầu tiên ở Nam Phi), B.1.117 (phát hiện đầu tiên ở Anh) và P.1, phổ biến ở Brazil. Cả ba chủng dường như đều được ghi nhận tăng khả năng lây truyền, do tăng khả năng nhiễm bệnh và / hoặc thoát khỏi hệ thống miễn dịch. Các loại vắc xin được phê duyệt đã được thử nghiệm trước khi các chủng biến thể mới phát tán rộng rãi, vì vậy chúng ta chưa có nhiều dữ liệu về hiệu quả trong thế giới thực đối với các chủng biến thể này. Vấn đề này đang được giải quyết trong vài tuần hoặc vài tháng tới khi các chủng biến thể mới lan rộng.
Novavax đã báo cáo rằng vắc-xin của họ có hiệu quả là 89,3%, ở một vùng dân số thuộc Vương quốc Anh, nơi có tỷ lệ phổ biến của chủng biến thể ‘Anh’. Tại Israel, nơi chủng biến thể ‘Anh’ phổ biến, Quỹ Y tế Maccabi báo cáo hiệu quả của vắc xin Pfizer lên đến 92%. Điều này xảy ra mặc dù các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy hoạt động trung hòa kháng thể chống lại biến thể này trong huyết thanh của bệnh nhân hoặc những người được tiêm chủng thấp hơn một chút. Các chủng biến thể 'Nam Phi' và 'Brazil' mang đột biến gen E484K được quan tâm nhiều hơn, vì đột biến này có liên quan đến khả năng thoát khỏi các kháng thể trong các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm và hoạt động trung hòa kháng thể thấp hơn so với trong huyết thanh của bệnh nhân hoặc người được tiêu chủng đã được chứng minh đối với chủng biến thể 'Nam Phi'.
Chúng ta cần theo dõi các chủng biến thể vi-rút mới này và kiểm tra xem liệu rằng khả năng miễn dịch chống lại chúng trong phòng thí nghiệm và ngoài thế giới thực có bị thay đổi hay không. Các công ty vắc xin xác nhận họ đang nghiên cứu vắc xin thế hệ tiếp theo, để chống lại cả các chủng biến thể mới.
Ưu điểm rõ ràng của vắc-xin là bất kỳ tác dụng phụ nào (ví dụ như sốt, nhức đầu, đau cơ, đau cánh tay), nếu có, đều tương đối nhẹ và tồn tại trong thời gian ngắn (thường hết trong vòng 72 giờ). Với những trường hợp ngoại lệ rất hiếm, những tác dụng phụ này không đáng kể khi so sánh với những hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều khi so với miễn dịch được tạo ra khi mọi người ở mọi lứa tuổi nhiễm bệnh COVID-19 tự nhiên. Vắc-xin sẽ không gây rủi ro cho bạn bè, gia đình và xã hội của bạn; tuy nhiên với quá trình lây nhiễm tự nhiên, bạn có thể vô tình lây truyền vi-rút cho người không có hệ miễn dịch tốt. Một điểm khác biệt giữa tiêm chủng và nhiễm bệnh là liều lượng vắc xin bạn được tiêm đã được thử nghiệm kỹ lưỡng để đảm bảo bạn tạo ra được khả năng miễn dịch tốt; Tuy nhiên, số lượng vi-rút bạn mắc phải trong quá trình nhiễm bệnh tự nhiên không được kiểm soát và có thể quá ít để tạo ra đáp ứng miễn dịch tối ưu hoặc quá nhiều gây ra bệnh lý nghiêm trọng.
Các vắc xin SARS-CoV-2 hiện có tập trung vào đáp ứng miễn dịch của cơ thể đối với một hoặc một số ít thành phần của vi-rút trong một cấu trúc ổn định có khả năng tối ưu hóa các đáp ứng miễn dịch, thay vì toàn bộ vi-rút. Vì vậy, phản ứng miễn dịch do vắc-xin tạo ra sẽ tác động đích đến các thành phần quan trọng của vi-rút trong khi phản ứng miễn dịch của nhiễm bệnh tự nhiên sẽ rộng hơn, bao gồm cả phản ứng với các thành phần ít quan trọng hoặc không quan trọng của vi-rút. Sự nhiễm bệnh tự nhiên cũng dẫn đến việc tạo ra các kháng thể tự miễn tấn công ‘ngoài mục tiêu’ trong một số trường hợp, có thể gây hại cho sức khỏe. Tuy nhiên. có một sự cân bằng ở đây, vì trong khi đáp ứng tập trung của vắc xin có thể hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn vi-rút ban đầu, phản ứng rộng hơn có thể mang lại khả năng bảo vệ tốt hơn chống lại một loạt các chủng biến thể vi-rút.
Khi hệ thống miễn dịch phản ứng với vi-rút, nó sẽ được tiến hành trong một môi trường bị xáo trộn bởi tình trạng viêm và tổn thương mô do vi-rút gây ra. Một số coronavirus thông thường có khả năng ngăn chặn hệ thống miễn dịch một cách hiệu quả. Vì vậy, trong những trường hợp nghiêm trọng hơn của bệnh COVID-19, phản ứng miễn dịch có thể không hoạt động một cách tối ưu. Trong những trường hợp này, chúng tôi dự đoán rằng đáp ứng miễn dịch với vắc-xin COVID-19 sẽ tốt hơn so với đáp ứng với nhiễm bệnh tự nhiên.
Tiêm phòng là một cách an toàn hơn để tạo được sự bảo vệ so với nhiễm bệnh tự nhiên. Lưu ý là khả năng miễn dịch đối với bất kỳ chủng biến thể vi-rút mới nào cũng cần được giám sát chặt chẽ để đảm bảo rằng các vắc xin hiện tại vẫn còn khả năng bảo vệ.
Chúng ta vẫn chưa biết mặc dù, như đã đề cập ở trên, chúng tôi dự đoán là khả năng miễn dịch đạt được nhờ vắc-xin tạo ra sẽ lâu bền hơn nhiều. Điều quan trọng nhất đối với khả năng miễn dịch cộng đồng là phản ứng miễn dịch sẽ làm giảm khả năng nhiễm bệnh / lây truyền và khả năng này tồn tại lâu dài.
Nói chung, miễn dịch đạt được do nhiễm bệnh và miễn dịch đạt được nhờ vắc-xin nên bổ sung cho nhau, tiêm vắc-xin giúp tăng cường miễn dịch đạt được do nhiễm bệnh và tiếp xúc tự nhiên với vi-rút làm tăng khả năng miễn dịch đạt được nhờ vắc-xin. Vì chúng ta không thể chắc chắn mức độ miễn dịch đạt được từ việc nhiễm bệnh tự nhiên, chúng tôi khuyến cáo mọi người nên được tiêm phòng vắc xin.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh