✴️ Khái niệm về xạ trị (P2)

Nội dung

6. NHỮNG TÁC DỤNG PHỤ CỦA XẠ TRỊ CÓ THỂ GẶP

Các mô bình thường của cơ thể đáp ứng khác nhau với tia xạ. Cũng như đối với khối u, những mô bình thường có các tế bào phân chia nhanh hơn có thể bị ảnh hưởng gây ra một số tác dụng phụ của xạ trị. Do xạ trị là một cách điều trị cục bộ nên tác dụng phụ cũng thường giới hạn ở những khu vực được xạ. Những biến chứng sớm của tia xạ có thể xuất hiện trong vòng vài ngày hoặc vài tuần sau khi bắt đầu điều trị và có thể tiếp tục trong 5, 6 tuần sau khi kết thúc điều trị. Những tác dụng phụ khác có thể không xuất hiện cho đến vài tháng, hoặc thậm chí vài năm sau đó. Những tác dụng phụ thường gặp sẽ được bàn luận ở phía dưới.

6.1. Mệt mỏi

Mệt mỏi là một tác dụng phụ thường gặp của hóa trị nhưng nguyên nhân chính xác của nó thì vẫn chưa được biết. Đôi khi, các khối u làm cho hệ miễn dịch tạo ra những chất gây mệt mỏi. Mệt mỏi có thể do thiếu máu (giảm số lượng hồng cầu), suy dinh dưỡng, đau, những thuốc như corticoid, hóa trị, trầm cảm và stress gây ra.

Không có cách điều trị đơn độc cho triệu chứng này nhưng nếu như có thể tìm ra được nguyên nhân thì nên điều trị nó. Chẳng hạn như mệt mỏi một phần được gây ra bởi tình trạng thiếu máu, nhiều bệnh nhân sẽ cảm thấy khá hơn sau khi được truyền máu, hoặc được cho những loại thuốc kích thích cơ thể tạo ra nhiều hồng cầu hơn.

Những bài tập thể dục từ nhẹ đến vừa kèm với giai đoạn nghỉ ngơi thường xuyên có thể là một phần trong chương trình làm giảm mệt mỏi. Hãy trao đổi với bác sĩ về điều này và những các điều trị khác có thể hữu ích cho người bệnh.

6.2. Da

Những cách xạ trị hiện đại ngày nay có thể ít gây tổn thương da hơn những cách trước đây do hầu hết liều xạ trị được đưa vào dưới bề mặt da. Người bệnh vẫn có thể cảm thấy da bị đáp ứng sớm với điều trị. Trong vòng 2 tuần đầu điều trị, người bệnh có thể cảm thấy da đỏ nhẹ. Da có thể trở nên mềm và nhạy cảm. Triệu chứng khô da và lột da có thể xuất hiện trong 3, 4 tuần sau. Sau đó, da của bệnh nhân sau điều trị có thể trở nên tối hơn. Điều này là do tác dụng của phóng xạ trên các tế bào sản xuất sắc tố của da.

Da có thể trở nên khô và ngứa. Làm ẩm da bằng dầu lô hội, lanolin hoặc vitamin E có thể hữu ích. Trước khi dùng bất kỳ sản phẩm nào trên da trong khi điều trị, hãy hỏi ý kiến bác sĩ xạ trị xem chúng có an toàn không. Một số mỹ phẩm có thể dùng tốt sau khi kết thúc điều trị nhưng lại làm tình trạng xấu đi nếu dùng trong khi điều trị. Tránh dùng nước hoa, chất khử mùi và thuốc bôi trên da có chứa cồn hoặc nước hoa. Ngoài ra cũng nên tránh bột phấn trừ phi đã được bác sĩ đồng ý. Tránh xa ánh sáng mặt trời càng nhiều càng tốt. Nếu người bệnh cần phải đi ra ngoài, hãy đội mũ và mặc quần áo có thể bảo vệ da được. Khoảng một tháng sau điều trị, một số bệnh nhân xạ trị có thể cảm thấy bị lột da và chảy nước ở khu vực điều trị. Hãy thông báo với bác sĩ nếu gặp những hiện tượng này.

Những hậu quả của xạ trị xuất hiện trễ hơn có thể là làm mỏng da. Da có thể cảm thấy cứng, đặc biệt là nếu như bệnh nhân đã được phẫu thuật trên cùng một vị trí. Một số bệnh nhân gặp rắc rối với quá trình lành vết thương ở khu vực được điều trị.

6.3. Miệng và họng

Viêm miệng là một tác dụng phụ ngắn hạn có thể xảy ra khi xạ trị ở khu vực đầu và cổ. Thường tình trạng sẽ được cải thiện trong vòng vài tuần sau khi kết thúc điều trị. Khô miệng và mất vị giác có thể là do phóng xạ làm tổn thương các tuyến nước bọt và các nhú vị giác bên trong miệng. Những tác dụng phụ này có thể hết sau khi kết thúc điều trị, nhưng trong một số trường hợp, chúng có thể tồn tại vĩnh viễn.

Giữ miệng sạch là yếu tố quan trọng để làm giảm nguy cơ nhiễm trùng. Nếu miệng bắt đầu đau, người bệnh sẽ được cho thuốc làm tê miệng hoặc làm giảm đau. Thuốc được uống trước bữa ăn để giúp ăn dễ hơn. Hãy đảm bảo rằng người bệnh đã báo với bác sĩ về bất kỳ cơn đau nào và các loại thuốc có tác dụng hay không.

Dinh dưỡng tốt rất quan trọng đối với các bệnh nhân ung thư. Nếu miệng bị đau hoặc tấy làm khó ăn hoặc khó nuốt, người bệnh có thể được cho ăn qua ống đặt trực tiếp vào dạ dày trong một khoảng thời gian để giúp người bệnh có đủ chất dinh dưỡng. Các bác sĩ sẽ giúp người bệnh lập kế hoạch kiểm soát những triệu chứng này.

Xạ trị vùng đầu và cổ có thể ảnh hưởng đến răng. Chăm sóc răng miệng để phòng ngừa triệu chứng sẽ trở thành một phần quan trọng trong kế hoạch điều trị của người bệnh. Trước khi bắt đầu xạ trị, hãy trao đổi với nha sĩ để được kiểm tra toàn diện. Ngoài ra cũng nên yêu cầu nha sĩ nói chuyện với bác sĩ xạ trị cho người bệnh trước khi bắt đầu điều trị. Bất kỳ thủ thuật nha khoa nào cũng đều cần phải được thực hiện trước khi bắt đầu xạ trị và cần phải điều trị fluoride mỗi ngày để bảo vệ răng.

6.4. Não

Xạ trị trên một phạm vi lớn trong não đôi khi có thể gây thay đổi chức năng não có thể dẫn đến mất trí nhớ, giảm ham muốn tình dục hoặc chịu đựng kém với khí hậu lạnh. Người bệnh cũng có thể gặp những triệu chứng như buồn nôn, loạng choạng, thay đổi thị giác. Thông thường những triệu chứng này chỉ là thứ yếu nếu so với những triệu chứng gây ra bởi u não nhưng chúng có thể gây phiền phức cho người bệnh.

Đôi khi, một vùng rộng lớn gồm các tế bào chết, còn được gọi là hoại tử do phóng xạ, được hình thành tại vị trí xạ trị bên trong não vào khoảng từ vài tháng đến vài năm sau điều trị. Những bệnh nhân này thường hoạt động tốt hơn những bệnh nhân bị u não tái phát. Tuy nhiên, có một số ít bệnh nhân bị hoại tử hoạt động rất kém hoặc thậm chí tử vong.

6.5. Phổi

Khi xạ trị ở ngực, phổi có thể bị ảnh hưởng. Một thay đổi sớm có thể gặp là giảm lượng surfactant, là một chất của phổi giúp đường dẫn khí được mở thông thoáng. Giảm surfactant làm cho phổi không thể nở ra hết mức được gây thở ngắn hoặc ho. Những triệu chứng này đôi khi có thể điều trị được bằng corticoid. Tùy thuộc vào vị trí xạ trị, một số bệnh nhân còn có thể thấy khó nuốt.

Một tác dụng phụ khác có thể xảy ra khi xạ trị ở phổi là xơ hóa phổi (cứng hoặc hóa sẹo) làm giảm khả năng giãn nở và thu nhận khí của phổi. Nếu một vùng lớn của phổi tiếp xúc với phóng xạ, những thay đổi này có thể gây thở ngắn và kém thích nghi với những hoạt động thể lực. Hiện tượng này có thể kéo dài từ vài tháng đến vài năm sau khi kết thúc điều trị.

6.6. Ống tiêu hóa

Xạ trị ở ngực và bụng có thể gây phù nề và viêm thực quản, dạ dày hoặc ruột gây ra các triệu chứng như đau, buồn nôn, nôn, hoặc tiêu chảy. Thuốc kháng acid, đôi khi có thể kết hợp với thuốc tê chẳng hạn như lidocaine. có thể làm thuyên giảm cơn đau ở những thực quản bị viêm. Nôn và buồn nôn cũng có thể điều trị được bằng thuốc. Nếu nặng, bệnh nhân có thể cần phải truyền dịch qua tĩnh mạch để tránh hoặc điều trị mất nước. Tiêu chảy có thể được điều trị bằng thuốc và tránh những thức ăn có gia vị, chiên, hoặc có độ xơ cao.

6.7. Cơ quan sinh dục

6.7.1. Khả năng sinh sản

Xạ trị ở tinh hoàn có thể gây mất vĩnh viễn khả năng sản xuất tinh trùng. Trừ phi ung thư xuất hiện ở tinh hoàn, nếu không chúng thường sẽ được bảo vệ khỏi phóng xạ bằng cách dùng một tấm giáp che chắn.

Bảo vệ buồng trứng ở nữ giới khi xạ trị ở bụng thì khó hơn. Nếu cả 2 buồng trứng đều bị tiếp xúc với phóng xạ, bệnh nhân sẽ mất vĩnh viễn khả năng sinh sản cùng với hiện tượng mãn kinh sớm. Tránh 1 buồng trứng có thể ngăn ngừa được tác dụng phụ này.

6.7.2. Giảm chức năng tình dục ở nữ giới khi xạ trị

Xạ trị ở vùng chậu có thể làm cho âm đạo bị nhạy cảm và viêm trong suốt vài tuần sau điều trị. Khi lành có thể để lại sẹo làm cản trở khả năng giãn của âm đạo. Niêm mạc âm đạo cũng sẽ mỏng hơn có thể gây chảy máu nhẹ sau khi quan hệ. Một số bệnh nhân còn bị loét hoặc một điểm đau nhỏ ở âm đạo. Cần phải mất vài tháng sau điều trị để khu vực này có thể lành lại được.
Bình thường sẹo có thể xuất hiện sau xạ trị vùng chậu làm âm đạo ngắn lại hoặc hẹp lại gây khó chịu khi giao hợp. Thường có thể ngăn ngừa được hiện tượng này bằng cách kéo dãn thành âm đạo vài lần mỗi tuần. Một trong những cách để thực hiện điều đó là quan hệ tình dục ít nhất 3 đến 4 lần mỗi tuần. Một lựa chọn khác là có thể dùng dụng cụ làm dãn âm đạo. Dụng cụ này là một que hay ống bằng nhựa hoặc cao su được dùng để kéo dãn âm đạo ra. Chúng sẽ cho cảm giác như đặt một tampon lớn vào trong vòng vài phút. Ngay cả khi nếu bệnh nhân không thích thú trong chuyện tình dục, việc giữ cho âm đạo ở kích thước bình thường giúp cho bác sĩ có thể thăm khám được dễ dàng. Đây là một phần quan trọng trong quá trình chăm sóc sau phẫu thuật.
Nếu không bị chảy máu nặng từ khối u ở bàng quang, trực tràng, tử cung, cổ tử cung, hoặc âm đạo, thì bệnh nhân có thể quan hệ tình dục được bình thường trong khi được xạ trị vùng chậu. Cơ quan sinh dục ngoài và âm đạo vẫn chỉ có độ nhạy cảm như bình thường. Nhưng nếu âm đạo bị tiếp xúc với phóng xạ sẽ gây khó chịu khi quan hệ do những điểm đau nhỏ hoặc mô viêm. Các bệnh nhân nữ được xạ trị nên tuân theo những hướng dẫn của bác sĩ về quan hệ tình dục trong khi điều trị. Hãy trao đổi với bác sĩ hoặc y tá về bất cứ vấn đề về tình dục nào mà người bệnh gặp phải.

6.7.3. Giảm chức năng tình dục ở nam giới khi xạ trị

Xạ trị ở khung chậu có thể làm tổn thương các động mạch và dây thần kinh cung cấp cho dương vật và gây ra những vấn đề về cương. Liều xạ trị càng cao và vùng xạ trị ở khung chậu càng rộng thì bệnh nhân càng có nhiều khả năng gặp rắc rối về cương dương hơn.

Khoảng 1/3 nam giới được xạ trị nhận thấy những thay đổi về khả năng cương của họ. Thay đổi thường xảy ra chậm sau 1 năm đầu hoặc sau quá trình điều trị. Một số nam bệnh nhân tiếp tục cương được tối đa nhưng sau đó lại mất đi trước khi lên đến đỉnh. Một số không còn có thể cương lên được hoàn toàn. Nam giới lớn tuổi, chưa từng cương hoàn toàn trước khi được điều trị, bị tăng huyết áp, hoặc nghiện thuốc nặng là những người có nguy cơ cao bị rối loạn cương dương sau xạ trị.

Testosterone là hormon nam đóng vai trò quan trọng trong chức năng cương. Một số nam giới bị giảm testosterone sau xạ trị vùng chậu. Tinh hoàn, là nơi sản xuất testosterone, có thể bị ảnh hưởng với ngay cả ở những liều xạ trị nhẹ rải rác hoặc do bị stress toàn thân do quá trình điều trị. Nồng độ testosterone thường sẽ phục hồi trong vòng 6 tháng xạ trị. Nhưng nếu như bệnh nhân cảm thấy gặp rắc rối trong cương dương hoặc giảm ham muốn tình dục sau điều trị, các bác sĩ có thể quyết định cho làm xét nghiệm máu để kiểm tra xem nồng độ testosterone có thấp hay không. Một số bệnh nhân sẽ được cung cấp testosterone để đưa nồng độ chất này trong cơ thể trở về bình thường. Đối với những bệnh nhân bị ung thư tiền liệt tuyến, liệu pháp thay thế testosterol có thể làm tăng tốc độ phát triển của các tế bào ung thư.

6.8. Ung thư thứ phát

Mối liên hệ giữa phóng xạ và ung thư đã được xác nhận cách đây nhiều năm qua các nghiên cứu từ những người sống sót sau vụ nổ bomb nguyên tử tại Nhật Bản, sự phơi nhiễm của các công nhân ở một số ngành nghề, và những bệnh nhân được xạ trị do ung thư và một số bệnh khác.
Một số trường hợp bị bệnh bạch cầu có liên quan đến tiếp xúc phóng xạ trước đó. Hầu hết các trường hợp xuất hiện bệnh trong vòng vài năm tiếp xúc, nguy cơ đạt đỉnh điểm vào khoảng thời gian từ 5 đến 9 năm sau tiếp xúc rồi sau đó giảm xuống dần. Những loại ung thư khác sau tiếp xúc với phóng xạ cần phải có nhiều thời gian hơn mới xuất hiện. Chúng có thể là những khối ung thư đặc, như ung thư vú, hoặc phổi. Hầu hết không xuất hiện trong vòng ít nhất 10 năm sau khi tiếp xúc phóng xạ, thậm chí một số trường hợp còn được chẩn đoán sau 15 năm.

Các kỹ thuật xạ trị được cải thiện đều đặn trong vòng vài thập kỷ qua. Giờ đây xạ trị đã có thể tập trung đến các tế bào ung thư một cách chính xác hơn và y học cũng đã hiểu biết nhiều hơn về cách định liều phóng xạ. Những tiến bộ trên mang lại hy vọng sẽ giảm được tỷ lệ xuất hiện ung thư thứ phát do xạ trị. Nguy cơ ung thư thứ phát sau xạ trị thường thấp và phải được cân nhắc trước những hiệu quả thuyết phục thu được nhờ xạ trị.

 

7. CẢI THIỆN SỨC KHỎE SAU XẠ TRỊ

Nhiều bệnh nhân muốn biết cách cải thiện sức khỏe chung của họ để giúp hệ miễn dịch tự nhiên của cơ thể đủ sức chiến đấu chống lại ung thư. Họ cũng muốn tăng tốc quá trình hồi phục của mình sau những tác dụng phụ của xạ trị.

7.1. Hút thuốc

Đối với những bệnh nhân vẫn còn hút thuốc, không bao giờ quá trễ để bỏ thuốc. Các nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân bị một số loại ung thư nếu vẫn tiếp tục hút thuốc trong khi và sau khi đều trị sẽ bị gia tăng nguy cơ ung thư tái phát hoặc xuất hiện những ung thư mới. Hút thuốc có thể làm nhiều tác dụng phụ nặng nề hơn. Chúng cũng làm giảm khẩu vị vào thời điểm cơ thể cần phải được bồi bổ.

7.2. Chế độ ăn

Một chế độ ăn cân bằng rất quan trọng. Người bệnh có thể cần tránh một số loại thức ăn do quá trình điều trị, nhưng quan trọng là người bệnh nên ăn những loại thức ăn giàu calori để cung cấp đủ năng lượng cho cơ thể bình phục. Nếu người bệnh gặp vấn đề trong việc thu nhận đầy đủ chất dinh dưỡng hoặc lo lắng về những loại thức ăn mình nên ăn, hãy hỏi bác sĩ hoặc các chuyên gia dinh dưỡng.
Bệnh nhân nên hỏi lại ý kiến bác sĩ trước khi uống bất kỳ loại vitamin nào trong khi đang xạ trị. Một số loại vitamin như A, E và C có tác dụng tương tự như thuốc chống oxy hóa. Chúng ngăn sự tạo tành các ion làm tổn thương DNA trong tế bào. Sự tổn thương này được cho là có vai trò quan trọng trong nguyên nhân gây ung thư. Có một số bằng chứng cho rằng nếu uống đủ những vitamin này có thể làm giảm nguy cơ bị một số loại ung thư. Nhưng ngược lại, xạ trị tấn công các tế bào ung thư bằng các tạo ra các ion để làm tổn hại nặng nề các DNA của những tế bào ung thư. Một số nhà khoa học tin rằng uống những loại vitamin chống oxy hóa liều cao này có thể làm cho quá trình xạ trị kém hiệu quả đi do chúng làm giảm những tổn thương của các tế bào ung thư. Cho đến giờ, vẫn chưa có nghiên cứu nào kiểm chứng đầy đủ giả thuyết này. Ngay cả như vậy, nhiều bác sĩ chuyên khoa xạ trị vẫn lưu ý bệnh nhân những điều sau:

Nếu toa bác sĩ kê cho người bệnh không có vitamin dùng cho một lý do đặc biệt nào đó, tốt nhất là người bệnh không nên tự uống một mình.

Một viên đa vitamin mỗi ngày có thể tốt đối với những bệnh nhân muốn cung cấp thêm vitamin, nhưng hãy tham khảo ý kiến bác sĩ của người bệnh trước.

Cách an toàn nhất là tránh dùng những vitamin chống oxy hóa liều cao trong quá trình xạ trị. Hãy hỏi ý kiến bác sĩ xem thời điểm nào là an toàn để bắt đầu sử dụng những loại vitamin này sau khi kết thúc điều trị.

 

8. CÓ GÌ MỚI TRONG XẠ TRỊ?

Những cách mới để đưa các chất phóng xạ vào khối u giúp cho việc xạ trị trở nên an toàn hơn và hiệu quả hơn. Một số cách đã được sử dụng, trong khi một số cách khác có thể cần nghiên cứu thêm trước khi được áp dụng để sử dụng rộng rãi.

8.1. Xạ trị không gian 3 chiều (3D - CRT: Three-dimensional conformal radiation therapy)

Là cách dùng hình ảnh CT kết hợp với vi tính để xác định chính xác vị trí của ung thư trong không gian 3 chiều. Bệnh nhân được mang một dụng cụ đỡ bằng nhựa để giữ cơ thể đứng yên. Luồng tia xạ phù hợp với hình dạng khối u được đưa đến khối u từ nhiều hướng khác nhau. Cách xạ trị này giúp làm giảm lượng phóng xạ đi qua những mô bình thường của cơ thể. Bằng cách nhắm mục tiêu của chùm tia chính xác hơn có thể làm giảm sự tổn thương do phóng xạ đối với các mô lành và tiêu diệt các tế bào ung thư tốt hơn bằng cách tăng liều phóng xạ đến khối u.

8.2. Xạ trị ung thư chuẩn hóa (IMRT - Intensity modulated radiation therapy)

Là một dạng cải tiến hơn nữa của cách xạ trị từ bên ngoài dùng photon. Như đối với 3D-CRT, chương trình vi tính được sử dụng để xác định chính xác khối u trong không gian 3 chiều. Nhưng cùng với việc phóng các tia photon từ nhiều hướng khác nhau, cường độ của tia cũng có thể được điều chỉnh. Điều này cho phép kiểm soát nhiều hơn nữa bằng cách giảm lượng phóng xạ tiếp xúc với mô lành trong khi đưa lượng phóng xạ cao hơn đến khối u. Do độ chính xác của nó, bệnh nhân cần phải nằm đúng vị trị và hoàn toàn không được cử động trong khi điều trị. Thường cần phải dùng một dụng cụ đỡ hoặc khung được làm trước khi điều trị để giữ cơ thể.

Một kỹ thuật liên quan là xạ trị bằng tia proton thích hợp (conformal proton beam radiation therapy) là cách dùng tia proton thay vì dùng tia X. Proton là một phần của nguyên tử ít gây tổn thương cho các mô nó đi qua nhưng lại có tính phá hủy tế bào tốt ở cuối đường đi của nó. Điều này có nghĩa là xạ trị bằng tia proton có thể đưa nhiều phóng xạ đến khối u hơn và giảm những tác dụng phụ đến các mô bình thường gần đó hơn. Proton chỉ có thể được phóng ra bởi những máy đặc biệt có tên là máy gia tốc (cyclotron hoặc synchrotron). Cài đặt loại máy này có thể phải tốn hàng triệu USD và cần những chuyên gia thực hiện. Do đó, cách điều trị này có thể rất đắt tiền và chỉ có một số ít trung tâm ở Mỹ mới làm được. Cần có nhiều nghiên cứu hơn nữa để so sánh hiệu quả giữa cách điều trị bằng proton với photon để có thể dùng cho những loại ung thư thích hợp cho kết quả tốt nhất.

8.3. Xạ phẫu (Stereotactic radiosurgery hoặc stereotactic radiation therapy)

Phát ra một lượng phóng xạ lớn chính xác đến khu vực u nhỏ. Thuật ngữ "phẫu thuật" có thể gây nhầm lẫn do không có vết cắt nào được thực hiện ở phương pháp này cả. Một số khối u xuất phát từ não hoặc ở nơi khác lan đến não được điều trị bằng kỹ thuật này. Một khung đội đầu có dạng hộp được gắn vào sọ để giữ yên và cho phép tia xạ được định hướng chính xác. Khi vị trí chính xác của khối u đã được xác định (bằng CT hoặc MRI), các tia xạ từ một loại máy có tên là Gamma Knife sẽ nhắm đến khối u từ hàng trăm góc khác nhau trong một thời gian ngắn. Tiến trình này có thể lập lại nếu cần thiết. Một cách khác gần giống với cách dùng này là dùng máy gia tốc tuyến tính có thể di chuyển được và được kiểm soát bởi máy vi tính. Thay vì phóng nhiều tia cùng một lúc, máy sẽ chạy xung quanh và phóng tia đến khối u theo những góc khác nhau. Một số loại máy vận hành theo cách này có tên là X-Knife, CyberKnife và Clinac. Kỹ thuật này được dùng nhiều nhất ở các khối u trong não và tủy sống, các nhà nghiên cứu đang tìm cách sử dụng chúng cho các dạng ung thư khác.

8.4. Xạ trị trong phẫu thuật (Intraoperative radiation therapy - IORT)

Là cách đưa phóng xạ đến khối u trong khi mổ. Chất phóng xạ có thể được đưa từ bên trong hay bên ngoài, và nó thường đi kèm với một đợt xạ trị từ bên ngoài trước hoặc sau khi mổ. IORT hữu ích đối với các ung thư vùng bụng hoặc khung chậu (đặc biệt là những khối u phát triển gần những vị trí nguy hiểm) và những ung thư có khả năng phát triển trở lại sau phẫu thuật. Những mô bình thường có thể được dời đi và được bảo vệ trong khi phẫu thuật, do đó IORT làm giảm lượng mô bình thường tiếp xúc với phóng xạ cho phép đưa một lượng lớn phóng xạ đến khối u hơn. IORT được thực hiện trong phòng phẫu thuật đặc biệt có tường được phủ bởi lớp bảo vệ chống phóng xạ.

8.5. Liệu pháp nhiệt (hyperthermia)

Là cách dùng nhiệt để điều trị ung thư. Nhiệt được phát hiện ra là có thể tiêu diệt các tế bào ung thư nhưng khi sử dụng đơn độc chúng không tiêu diệt đủ để trị khỏi ung thư. Nhiệt tạo ra các do vi sóng và siêu âm đang được nghiên cứu kết hợp với phóng xạ và chứng tỏ có thể làm gia tăng hiệu quả của phóng xạ.

Chất nhạy phóng xạ là những chất làm các tế bào ung thư nhạy cảm với phóng xạ hơn. Một số thuốc hóa trị đã được dùng cũng là chất nhạy cảm phóng xạ. Các nhà nghiên cứu đang cố gắng tìm ra những chất mới có thể làm khối u nhạy cảm với phóng xạ hơn mà không ảnh hưởng đến những mô bình thường.

Chất bảo vệ phóng xạ là những chất bảo vệ các tế bào bình thường khỏi phóng xạ. Những loại thuốc này rất có ích ở những khu vực mà các mô bình thường khó tránh khỏi phải bị tiếp xúc với phóng xạ khi điều trị, chẳng hạn như vùng đầu và cổ. Một số thuốc bảo vệ như amifostine (Ethyol®) đang được sử dụng trong khi một số khác đang được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top