FDA chấp thuận pembrolizumab với hóa xạ trị cho ung thư cổ tử cung giai đoạn III-IVA FIGO 2014

Hiệu quả đã được đánh giá trong KEYNOTE-A18 (NCT04221945), một thử nghiệm đa trung tâm, ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng giả dược, tuyển chọn 1060 bệnh nhân ung thư cổ tử cung chưa từng phẫu thuật, xạ trị hoặc điều trị toàn thân dứt điểm. Thử nghiệm bao gồm 596 bệnh nhân mắc bệnh FIGO 2014 Giai đoạn III-IVA và 462 bệnh nhân mắc bệnh FIGO 2014 Giai đoạn IB2-IIB, hạch dương tính.

Bệnh nhân được phân nhóm ngẫu nhiên (1:1) để dùng pembrolizumab 200 mg hoặc giả dược sau mỗi 3 tuần trong 5 chu kỳ + CRT, sau đó dùng pembrolizumab 400 mg hoặc giả dược sau mỗi 6 tuần trong 15 chu kỳ. Phác đồ CRT bao gồm cisplatin 40 mg/m2 tiêm tĩnh mạch hàng tuần trong 5 chu kỳ (với chu kỳ thứ 6 tùy chọn) và xạ trị chùm tia ngoài (EBRT) sau đó là xạ trị gần. Phân tầng ngẫu nhiên theo loại EBRT đã lên kế hoạch, giai đoạn và tổng liều xạ trị đã lên kế hoạch.

Các biện pháp đánh giá hiệu quả chính là tỷ lệ sống không tiến triển (PFS) do nhà nghiên cứu đánh giá theo RECIST v1.1 hoặc xác nhận mô bệnh học và tỷ lệ sống tổng thể (OS). Thử nghiệm đã chứng minh sự cải thiện đáng kể về mặt thống kê đối với PFS trong toàn bộ quần thể. Trong phân tích phân nhóm thăm dò ở 596 bệnh nhân mắc bệnh FIGO 2014 Giai đoạn III-IVA‑, ước tính tỷ lệ nguy cơ PFS (HR) là 0,59 (95% CI: 0,43, 0,82) và 21% bệnh nhân trong nhóm pembrolizumab đã gặp phải biến cố PFS so với 31% bệnh nhân trong nhóm giả dược. Ngược lại, trong phân tích phân nhóm thăm dò ở 462 bệnh nhân mắc bệnh FIGO 2014 Giai đoạn IB2-IIB, ước tính HR PFS là 0,91 (95% CI: 0,63, 1,31), cho thấy sự cải thiện PFS trong toàn bộ quần thể chủ yếu là do bệnh nhân mắc bệnh FIGO 2014 Giai đoạn III-IVA. Dữ liệu OS chưa hoàn thiện tại thời điểm phân tích PFS.

Các phản ứng có hại phổ biến nhất (≥10%) xảy ra ở những bệnh nhân dùng pembrolizumab với hóa xạ trị là buồn nôn, tiêu chảy, nôn, nhiễm trùng đường tiết niệu, mệt mỏi, suy giáp, táo bón, chán ăn, sụt cân, đau bụng, sốt, cường giáp, tiểu khó, phát ban và đau vùng chậu.

Phác đồ liều dùng khuyến cáo cho pembrolizumab là 200 mg IV mỗi 3 tuần hoặc 400 mg IV mỗi 6 tuần cho đến khi bệnh tiến triển, độc tính không thể chấp nhận được hoặc trong tối đa 24 tháng. Nên dùng pembrolizumab trước khi hóa xạ trị khi dùng cùng ngày.

Đánh giá này được tiến hành theo Dự án Orbis, một sáng kiến ​​của Trung tâm Ung thư Xuất sắc của FDA. Dự án Orbis cung cấp khuôn khổ để nộp và đánh giá đồng thời các loại thuốc ung thư giữa các đối tác quốc tế. Đối với đánh giá này, FDA đã hợp tác với Cục Quản lý Hàng hóa Trị liệu Úc (TGA) và Cơ quan Quản lý Y tế Brazil (ANVISA). Các đánh giá về đơn đăng ký đang được tiến hành tại các cơ quan quản lý khác.

Trích https://www.fda.gov/drugs/resources-information-approved-drugs/fda-approves-pembrolizumab-chemoradiotherapy-figo-2014-stage-iii-iva-cervical-cancer

Định nghĩa về bệnh nhân giai đoạn IV không thay đổi. Tuy nhiên, định nghĩa về giai đoạn III đã được cập nhật để bao gồm tình trạng hạch trên hình ảnh chụp. Sự hiện diện của các hạch dương tính hiện đã nâng giai đoạn bệnh lên giai đoạn IIIC. Phân loại FIGO cũ không bao gồm bất kỳ hình ảnh nào khi phân loại bệnh nhân. Với bản cập nhật này, có những bệnh nhân đang được nâng giai đoạn lên IIIC. NCCN hiện vẫn khuyến cáo sử dụng giai đoạn FIGO 2014 (hoặc thực sự là FIGO 2009) khi đánh giá các ứng viên cho pembrolizumab. Giai đoạn FIGO 2018 là khuyến cáo loại 2B.

Chúng ta phải nhớ rằng những bệnh nhân có giai đoạn IB2–IIB theo FIGO 2014 và bệnh hạch dương tính không cho thấy lợi ích với pembrolizumab, đó là lý do tại sao FDA chỉ chấp thuận pembrolizumab cho FIGO 2014 Giai đoạn III-IV

return to top