Sarcoma mô mềm là ung thư (ác tính) có nguồn gốc trong các mô mềm của cơ thể. Mô mềm kết nối, hỗ trợ và bao quanh cấu trúc cơ thể. Các mô mềm bao gồm cơ, mỡ, mạch máu, dây thần kinh, gân và lớp lót của các khớp xương (mô hoạt dịch). Một lượng lớn sacôm mô mềm có thể xảy ra ở các khu vực này.
Sacôm mô mềm không phổ biến, chỉ có khoảng 10.000 sacôm mô mềm được chẩn đoán hàng năm ở Hoa Kỳ.
Mặc dù có nhiều loại sarcoma mô mềm nhưng chúng thường có những đặc điểm và triệu chứng tương tự và cũng được điều trị theo cách tương tự.
Sarcoma mô mềm thường không có dấu hiệu và triệu chứng ở giai đoạn đầu. Khi khối u phát triển, nó có thể gây ra:
Sarcoma mô mềm có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào trong cơ thể, nhưng con số lớn nhất - khoảng 60% - xảy ra ở cánh tay, chân, bàn tay hoặc bàn chân. Khoảng 20% xảy ra ở ngực và bụng. Và khoảng 10% xảy ra ở vùng đầu và cổ.
Sacôm mô mềm có nhiều tên khác nhau, tùy thuộc vào các mô xuất phát. Ví dụ về một số sarcoma và vị trí bao gồm:
Rhabdomyosarcoma |
Phổ biến ở trẻ em, sarcoma này xảy ra trong cơ xương |
Leiomyosarcoma |
Xảy ra trong các cơ trơn – cơ không được kiểm soát tự nguyện. Tìm thấy nhiều nhất trong tử cung, đường ruột hoặc lớp lót của các mạch máu. |
Hemangiosarcoma |
Ảnh hưởng đến mạch máu, đặc biệt là ở cánh tay, chân và thân mình. |
Kaposi's sarcoma |
Một bệnh ác tính xảy ra ở thành mạch máu. Thông thường ảnh hưởng đến những người có suy giảm miễn dịch, chẳng hạn như HIV / AIDS. |
Lymphangiosarcoma |
Ảnh hưởng đến các mạch bạch huyết và đôi khi thấy ở một chi với tình trạng sưng mãn tính (phù bạch huyết), có thể từ một khu vực của xạ trị trước hoặc nhiễm trùng hiếm nhất định mãn tính. |
Hoạt dịch sarcoma |
Mô xung quanh các khớp như đầu gối và mắt cá chân bị ảnh hưởng. Thông thường xảy ra ở trẻ em và người lớn trẻ tuổi. |
Neurofibrosarcoma |
Xuất hiện ở các dây thần kinh ngoại vi.
|
Liposarcoma |
Mô béo, thường ở chân và thân mình bị ảnh hưởng. |
Fibrosarcoma |
Mô xơ trong vòng tay, chân hoặc thân thể bị ảnh hưởng. |
Xơ u mô bào ác tính |
Một khối u mô sợi có khả năng xảy ra ở chân. |
Dermatofibrosarcoma |
Phát triển trong mô dưới da, và thường phát triển ở thân mình hoặc tay chân. |
Nói chuyện với bác sĩ nếu phát hiện ra một lần mà còn tồn tại hoặc nếu nhận thấy dấu hiệu hay triệu chứng có thể nghi ngờ là sarcoma mô mềm, chẳng hạn như đau bụng tăng dần hoặc có máu trong phân.
Nói chung, nguyên nhân của sarcoma mô mềm chưa được biết đến. Một số sarcoma mô mềm đã biết nguyên nhân là sarcoma Kaposi. Nó xảy ra ở những người bị khiếm khuyết hệ miễn dịch và được gây ra bởi một loại virus được gọi là virus herpes 8 (HHV8).
Ngoài ra, trong một số trường hợp, sarcoma có thể được di truyền, chẳng hạn như trong:
Phơi nhiễm bức xạ
Bức xạ đôi khi kết hợp với sarcoma. Đôi khi nó là một trong những tác dụng phụ của xạ trị cho bệnh ung thư khác như ung thư vú hoặc ung thư hạch… Nhưng bức xạ trị liệu ngày càng trở nên tinh vi, hạn chế rất nhiều tác dụng phụ. Ví dụ, các bác sĩ ngày nay có khả năng điều chỉnh liều bức xạ tốt hơn và xác định chính xác mục tiêu khối u được điều trị.
Tiếp xúc hóa chất
Một yếu tố khác có thể làm tăng nguy cơ sarcoma mô mềm là tiếp xúc với liều cao hóa chất như:
Vinyl clorua, được sử dụng làm chất dẻo.
Dioxin, một sản phẩm phụ của nhiều quá trình sản xuất chất hóa học công nghiệp liên quan đến clo.
Thuốc diệt cỏ có chứa các hóa chất axit phenoxyacetic.
Với sarcoma mô mềm, khối u có thể phát triển lớn, chèn ép mô bình thường và gây đau đớn. Nếu sarcoma di căn đến các cơ quan khác sẽ gây rối loạn chức năng của cơ quan bị ảnh hưởng, như khó thở nếu nó di căn đến phổi.
Nếu nghi ngờ là sarcoma, bác sĩ sẽ hỏi về lịch sử y tế, kiểm tra lâm sàng và cũng có thể lấy một mẫu mô (sinh thiết) từ các khối u để kiểm tra..
Phẫu thuật sinh thiết. Bác sĩ rạch một đường qua da và loại bỏ toàn bộ khối u (excisional sinh thiết) hoặc một phần của khối u (incisional sinh thiết). Trong một số trường hợp, có thể chỉ cần gây tê tại chỗ. Đối với khối u sâu, có thể yêu cầu thực hiện thủ tục gây mê. Điều quan trọng là phải cần một bác sĩ giàu kinh nghiệm trong điều trị sarcom thực hiện sinh thiết excisional.
Kiểm tra hình ảnh, chẳng hạn như X-quang, chụp cắt lớp (CT) trên máy vi tính quét, siêu âm, chụp cộng hưởng từ (MRI) và chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) cũng có thể được thực hiện để cho phép bác sĩ xem và đánh giá các khu vực quan tâm.
Bên cạnh việc xác định là ác tính hay không, xét nghiệm các mô tế bào có thể xác định lớp mà tế bào ung thư xuất phát. Những xét nghiệm, chẳng hạn như chẩn đoán hình ảnh và xét nghiệm máu, có thể giúp xác định ung thư đã lan rộng hay chưa. Dựa vào các xét nghiệm trên, chúng ta có thể phân các giai đoạn của sarcoma:
Như với bệnh ung thư khác, điều trị sarcom phụ thuộc vào kích thước, vị trí, loại và giai đoạn của sarcoma, kể cả khi nó đã lan đến các hạch bạch huyết hoặc các bộ phận khác của cơ thể và phụ thuộc vào sức khỏe tổng thể.
Phẫu thuật
Phẫu thuật là điều trị phổ biến nhất cho sacôm mô mềm, đặc biệt là nếu các tế bào ác tính chưa lan đến các bộ phận khác của cơ thể. Phẫu thuật thường loại bỏ mô ung thư và một số mô khỏe mạnh xung quanh nó. Nếu sarcoma đã lan rộng, phẫu thuật loại bỏ các khối u tiên phát và thứ phát có thể thực hiện được.
Trước đây, cắt cụt là phổ biến khi điều trị các sarcoma mô mềm trong cánh tay hoặc chân. Ngày nay, những tiến bộ trong kỹ thuật phẫu thuật và hóa trị liệu trước khi phẫu thuật (neoadjuvant hóa trị liệu) hoặc sau khi phẫu thuật (chất bổ trợ điều trị hoá chất) cùng với xạ trị đã giúp hạn chế phẫu thuật cắt cụt chi. Tuy nhiên, cắt cụt có thể là cần thiết để loại bỏ tất cả các tế bào ác tính từ sarcoma mô mềm trong một cánh tay hoặc chân đã xâm lấn dây thần kinh, mạch máu hoặc bắp thịt.
Xạ trị
Xạ trị - còn gọi là điều trị bằng xạ trị X-ray – sử dụng các chùm hạt năng lượng cao, hoặc sóng (phóng xạ), chẳng hạn như tia gamma hay X-quang. Xạ trị làm ảnh hưởng cả tế bào ung thư lẫn tế bào khỏe mạnh. Tuy nhiên, các tế bào bình thường có khả năng phục hồi các ảnh hưởng của tia xạ tốt hơn tế bào ung thư.
Liệu pháp bức xạ có thể được khuyến cáo để điều trị sarcoma mô mềm. Bác sĩ có thể đề nghị sử dụng liệu pháp bức xạ trước khi phẫu thuật để thu nhỏ khối u ung thư hoặc sau khi phẫu thuật để ngăn chặn sự tăng trưởng của các tế bào ung thư còn lại. Cũng có thể điều trị cùng lúc với hóa trị để làm tăng hiệu quả của xạ trị.
Hóa trị
Hóa trị sử dụng thuốc để diệt các tế bào phân chia nhanh chóng, bao gồm tế bào ung thư và tế bào khỏe mạnh phân chia một cách nhanh chóng, chẳng hạn như trong tủy xương, đường tiêu hóa, hệ thống sinh sản và các nang tóc. Không giống như liệu pháp bức xạ, chỉ xử lý một phần của cơ thể tiếp xúc với bức xạ, hóa trị có tác dụng toàn thân. Kết quả là, nó xử lý cả các tế bào đã di căn.
Vai trò của hóa trị liệu trong điều trị các sarcoma mô mềm không rõ ràng, bởi vì không phải tất cả các nghiên cứu đều có kết quả tích cực. Tuy nhiên, hóa trị liệu đã được ghi nhận có hiệu quả trong điều trị rhabdomyosarcomas.
Ngoài hóa trị, một số loại thuốc ức chế enzym nhất định rất quan trọng cho sự phát triển và tăng trưởng của khối u cũng được sử dụng. Một trong những loại thuốc này, imatinib (Gleevec), được sử dụng để điều trị sarcoma mô đệm khối u đường tiêu hóa. Các loại thuốc chống ung thư và kết hợp mới của các phương pháp điều trị đang được thử nghiệm lâm sàng.
Căn bệnh ung thư hiện nay vẫn đặt ra nhiều thách thức đối với y học. Dưới đây là một số gợi ý đối phó:
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh