Có nhiều bộ, họ, trong đó có bộ Linguatula, bộ Arcarina (bộ ve) có vai trò đối với y học.
BỘ LINGUATULA
Là những động vật chân đốt nhỏ chân bị thoái hoá, hình thể giống như giun sán, nhưng có thớ ngang, hình dẹt hoặc tròn, thở qua da.
Linguatula có hai loài chính:
Linguatula serrata:
Hình dẹt, thân có thớ chia ngang. Con cái dài 8 - 10 mm, con đực nhỏ hơn, chỉ dài 5 - 6 mm, kí sinh ở xương hốc mũi các loài chó, chồn, cừu...
Ở người, kí sinh dưới dạng ấu trùng tạo thành những nang ở cơ hoành hoặc gan. Người bị nhiễm do ăn phải trứng có lẫn trong thực phẩm.
Porocephalus armillatus:
Hình ống dài, có các khúc giống như đốt trúc: có cái có 18-22 khúc, dài 9-10 cm; con đực có 10-17 khúc, dài 4-5 cm. Con trưởng thành kí sinh ở phổi các loài rắn lớn; ở người, kí sinh dưới dạng ấu trùng tạo thành nang ở gan. Người nhiễm do ăn phải trứng. Cả hai bệnh này chưa gặp ở Việt Nam.
BỘ ACARINA - BỘ VE
Ve - Acarina có đầu, ngực, bụng dính liền một khối, bộ phận miệng còn gọi là đầu giả (capitulum).
Acarina trưởng thành có 8 chân, ấu trùng có 6 chân, không có râu, không có cánh.
Phân loại Acarina theo cách thở và lỗ thở:
HỌ VE IXODIDAE
Thường gọi là ve có lỗ thở nằm ở giữa cơ thể. Đầu giả mang hai càng không di động được, có 2 họ phụ: ve mềm (Argasinae) không có mai, đầu giả nằm ở dưới bụng (ít gặp ở Việt Nam) và ve cứng (Ixodinae) có mai, đầu giả nằm ở phía trước.
Ve có thành phần loài rất phong phú, kí sinh trên nhiều loài động vật. Trên thế giới phát hiện được 750 loài Ixodinae và trên 100 loài Argasinae. Miền Bắc Việt
Nam đã phát hiện được 49 loài và phân loài ve cứng, 1 loài ve mềm kí sinh trên các động vật máu nóng (trâu, bò, chó, chuột, gà, chim...) và bò sát (rắn, kì đà...).
Ve mềm (Argasinae).
Ve mềm (Argasinae) có các chi Argas và Ornithodoros.
Năm 1942 Toumanoff gặp ve mềm kí sinh trên dơi.
Không có mai lưng ở tất cả các giai đoạn phát triển, mặt bụng chỉ có những đĩa bằng kitin, đầu giả nằm ở dưới bụng.
Hình : Hình thể và vòng đời của ve mềm.
Ve mềm hoàn thành vòng đời từ 3-12 tháng. Ve đực và ve cái đều hút máu, thường hút máu về đêm. Đực cái giao phối ngay trên vật chủ. Mỗi đời đẻ 100 - 200 trứng, cả đời đẻ khoảng 1200 trứng. Ve trú ẩn ở khe kẽ nền nhà, vách tường, khe cột...
Ve nhịn đói lâu được tới hàng năm. Tuổi thọ của Argasidae cao, có khi tới 25 năm.
Ve mềm Ornithodoros moubata truyền được cho người một số loài soắn khuẩn thuộc chi Spirochaeta và Borrelia. Ve hút máu của động vật gặm nhấm và thú nhỏ bị nhiễm soắn khuẩn, soắn khuẩn phân tán khắp cơ thể ve và cả tuyến nước bọt, sau đó truyền cho động vật xương sống khác.
Ve mềm Ornithodoros moubata gây bệnh sốt hồi quy.
Ve cứng (Ixodinae).
Hình thể ve cứng:
Ve trưởng thành hình bầu dục, dẹt theo chiều lưng bụng, dài khoảng 3-23 mm tùy thuộc từng loài, màu từ nâu nhạt đến đậm. Thân là một khối không phân rõ đầu, ngực, bụng.
Có bộ phận hút máu gọi là đầu giả (capitulum) nằm ở phía trước, gồm một đôi pan, một đôi kìm và một vòi xếp thành hàng, mọc quay xuống phía thân. Mỗi pan có 4 đốt, đốt thứ 4 nằm trong đốt thứ 3, có cơ quan khứu giác để tìm mồi. Mặt lưng có mai (mảng kitin), con đực có mai to trùm toàn bộ lưng; con cái mai nhỏ chỉ chiếm một phần phía trước. Đốt cuối của đôi chân trước có cơ quan cảm giác (cơ quan Haller) để đánh hơi tìm mồi . Ấu trùng ve chỉ có ba đôi chân.
Hình : Hình thể ve cứng.
Đặc điểm sinh học:
Vòng đời phát triển trải qua 4 giai đoạn: trứng - ấu trùng - thanh trùng - trưởng thành. Ve đực thường chết sau khi giao phối.
Ve cái tìm mồi hút máu và đẻ trứng. Cả đời ve chỉ đẻ 1 lần, đẻ hết trứng và teo xác lại rồi chết. Thời gian đẻ trứng kéo dài trong 14 - 20 ngày với số lượng từ 2000 - 8000 trứng. Sau 2 - 7 tuần, trứng nở ra ấu trùng. Mỗi giai đoạn phát triển ấu trùng, thanh trùng và trưởng thành đều cần hút máu, có no mới lớn lên và lột xác chuyển giai đoạn. Nhìn chung các loài ve hút máu nhiều loài vật chủ (đa vật chủ), một số loài chỉ có ít vật chủ thích hợp là người và động vật. Các hình thức kí sinh của ve có thể là:
Kí sinh trên một loài vật chủ ở tất cả các giai đoạn: Boophylus caudatus...
Kí sinh trên 2 vật chủ, giai đoạn ấu trùng và thanh trùng trên 1 vật chủ, giai đoạn trưởng thành trên 1 vật chủ khác: Rhipicephalus bursa.
Mỗi giai đoạn phát triển vòng đời kí sinh trên 1 vật chủ như: Dermacentor, Haemaphysalis.
Thời gian hoàn thành vòng đời phát triển của ve tùy thuộc vào thức ăn và nhiệt độ môi trường, kéo dài 2 - 3 tháng hoặc hơn.
Khu vực phân bố của ve tùy thuộc vào vật chủ. Có loài gặp nhiều ở rừng rậm, đồng cỏ; có loài ở xung quanh chuồng gia súc... Những động vật là vật chủ của ve: chuột, sóc, trâu, bò, ngựa... và người. Trên vật chủ ve thường tìm nơi da ẩm như: cổ, nách, bẹn, sau tai... để kí sinh hút máu.
Hình : Vòng đời ve cứng.
Ve rình mồi bằng cách bám trên ngọn cỏ, lá cây... ở các đường đi của vật chủ. Ve nằm im, đưa 2 chân trước lên đánh hơi tìm mồi, hướng về phía vật chủ đang đi lại. Khi vật chủ đi qua, ve bám ngay vào lông tóc, quần áo... sau đó tìm nơi kí sinh. Sau khi bám vào vật chủ 50 - 60 phút ve mới hút máu. Ở nhiệt độ 19 - 200C, độ ẩm 80% ve hoạt động mạnh. Khi trời nắng ấm, khô ráo ve hoạt động mạnh. Khi trời âm u, trời mưa ve hoạt động ít hơn, có khi ngừng hoạt động.
Mùa phát triển của ve ở Việt Nam khác nhau tùy từng loài: Haemaphysalis, Amblioma, Dermacentor phát triển vào hè thu (tháng 4 - tháng 8); Boophylus phát triển quanh năm nhưng nhiều vào đông xuân.
Ve có sức chịu đói cao: ấu trùng có thể nhịn đói khoảng 1 tháng, thanh trùng và trưởng thành nhịn đói được hàng năm. Ve có thể sống khoảng 5 năm.
Vai trò y học:
Vai trò truyền bệnh:
Ve có thể truyền được nhiều loại mầm bệnh: vi khuẩn, vi rút, Rickettsia...
Mầm bệnh là Rickettsia:
Sốt Q: mầm bệnh là R.burnetti (Coxiella burnetti). Bệnh phát hiện lần đầu tiên ở vùng Queensland (Australia). Hiện bệnh phân bố rộng rãi trên toàn thế giới. Bệnh do ve Rhipicephalus, Dermacentor truyền; bệnh cũng có thể lây qua đường hô hấp và tiêu hoá.
Sốt phát ban vùng núi đá: mầm bệnh là R.rickettsi, do ve Dermacentor truyền, hay gặp ở vùng Tây châu Mĩ (Braxin, Canada, Colombia, Panama và Mĩ).
Sốt phát ban Siberie: mầm bệnh là R.sibirica do ve Dermacentor, Haemaphysalis, Rhipicephalus truyền. Bệnh phân bố ở Nhật Bản, Liên Xô (cũ) và vùng Thái Bình Dương. Bệnh do loài ve rừng châu Á Dermacentor silvarum truyền.
Bệnh sốt phát ban do R.conorii: ở vùng Trung Cận Đông, châu Phi và Nam Á do ve chó nâu Rhipicephalus sangiuneus truyền.
Bệnh sốt phát ban do R.australis xảy ra ở vùng Queensland (Australia): do loài ve yếm Ixodes holocychis truyền.
Điều trị: có thể dùng tetracyclin hoặc cloramphenicol.
Phòng bệnh: tránh không cho ve đốt, nhanh chóng thận trọng lấy ve ra khỏi chỗ đốt. Rickettsia có thể nhiễm cho người vài giờ sau khi ve bám vào vật chủ.
Mầm bệnh là virút:
Một số bệnh viêm não do ve truyền là do virut gây viêm cấp ở não, màng não, tủy sống. Triệu chứng thay đổi tùy theo bệnh. Nhiều người bị nhiễm nhưng không có biểu hiện gì. Trường hợp nặng có đau đầu dữ dội, sốt cao, buồn nôn, hôn mê, có thể tử vong.
Viêm não ve hay viêm não vùng rừng Taiga (còn gọi là viêm não vùng Viễn Đông): do ve Taiga Ixodes persulcatus truyền.
Viêm não châu Âu (viêm não vùng Trung Âu từ Ural cho đến Pháp): do ve đậu Ixodes ricinus truyền.
Bệnh sốt Colorado: do ve rừng Mĩ Dermacentor andessoni, bệnh được nghiên cứu nhiều ở châu Mĩ.
Mầm bệnh là vi khuẩn:
Bệnh Tularemia: do ve Dermacentor truyền, gặp nhiều ở châu Mĩ, châu Âu.
Bệnh còn gọi là bệnh sốt thỏ, sốt ruồi hươu hay bệnh Ohara do Francisella tularensis gây ra. Mầm bệnh do ve Dermacentor, ve thỏ Mĩ Haemaphysalis leporis-palustris; cũng có thể do va chạm với động vật mắc bệnh như thỏ... Thợ săn và thợ rừng có nguy cơ nhiễm bệnh cao.
Bệnh điều trị bằng kháng sinh streptomycin.
Dự phòng: tránh ve đốt; sử dụng găng tay không thấm nước để giết ve và tiếp xúc với các động vật săn được. Nấu chín thịt động vật hoang dại và nước ở vùng có bệnh.
Bệnh Lime: mầm bệnh là xoắn khuẩn Borrelia burrefery, phát hiện từ năm
1975 tại làng Lime (Mĩ). Bệnh xảy ra chủ yếu ở vùng ôn đới phía Bắc Trái Đất gồm: Trung Quốc, châu Âu, Mĩ và Liên Xô (cũ).
Bệnh đã được phát hiện ở Việt Nam trên một bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện 103 (Nguyễn Phú Kháng và CS, 1990).
Bệnh phát triển qua 3 giai đoạn:
Bệnh chủ yếu do ve Ixodes truyền, phổ biến nhất vào mùa hè, khi có nhiều thanh trùng ve.
Các loài gặm nhấm nhỏ, đặc biệt là chuột, đóng vai trò nguồn bệnh trong khi đó các thú lớn chủ yếu đóng vai trò vật chủ nuôi giữ quần thể ve. Ấu trùng ve nhiễm bệnh trong khi đốt chuột, thanh trùng và trưởng thành có thể truyền bệnh trong những lần đốt tiếp theo.
Tại những vùng ôn đới phía bắc bệnh đã trở nên phổ biến hơn khi những đàn hươu, nai tăng lên và đã thích nghi với cuộc sống gần người. Có thể giảm sự tiến triển bệnh hoặc dự phòng bằng tetracyclin hoặc penicillin trong 2 - 4 tuần.
Vai trò gây bệnh của ve:
Gây ngứa tại chỗ: vết ve đốt rất đau, ngứa do phản ứng của vật chủ; hoặc do đầu giả của ve bị đứt lại trong da làm nổi sẩn cục, sưng đau, ngứa, phù nề.
Thiếu máu: nếu bị ve đốt nhiều có thể gây thiếu máu, đặc biệt ở gia súc bị ve kí sinh nhiều có thể giảm khả năng sinh truởng, giảm sản lượng sữa (bò, dê, ngựa...).
Độc tố của ve có thể gây liệt (liệt tạm thời), hay gặp ở trẻ em, đôi khi liệt cơ hô hấp có thể gây tử vong; liệt xuất hiện sau khi bị ve đốt 5 - 7 ngày, gây tê liệt ở chân và ảnh hưởng đến khả năng nói, nuốt và thở. Bệnh xảy ra phổ biến trên thế giới, nguy hiểm ở trẻ em dưới 2 tuổi. Điều trị bằng cách lấy ve ra khỏi cơ thể.
Phòng chống ve.
Khi lao động hoặc đi qua nơi có ve hoạt động, định kì khoảng 50 phút 1 lần cần nghỉ để bắt ve trên thân thể, quần áo; tốt nhất là 2 người kiểm tra cho nhau. Khi đã bị ve đốt, nhẹ nhàng lấy kim châm hoặc đốt vào thân ve để ve tự nhả ra, tránh dứt mạnh làm đầu giả của ve bị đứt lại trong da gây viêm đau.
Dùng hoá chất xua côn trùng bôi lên chỗ da hở; không ngồi trực tiếp xuống đất, cỏ...
Phá nơi sinh sản và trú ẩn của ve: lấp khe kẽ trên nền nhà, chuồng chăn nuôi. Bộ đội trú quân ở rừng cần phát quang xung quanh lán trại, nhà và đốt sạch mùn rác.
Diệt ve trên gia súc (trâu, bò, ngựa...), dùng hoá chất diệt côn trùng phun vào nơi có nhiều ve trú ẩn.
TROMBICULIDAE - HỌ MÒ
Họ mò - Trombiculidae thuộc bộ ve bét (Acariformes), cho đến nay trên thế giới đã phát hiện hơn 3000 loài, trong đó có 19 loài truyền bệnh sốt mò (sốt phát ban Tsutsugamushi do R.tsutsugamushi) phân bố ở nhiều nơi trên thế giới.
Mò thường kí sinh ở các thú nhỏ, chủ yếu là chuột, một số ở chim, gà và bò sát. Mò đốt gây ngứa, dị ứng.
Ở Việt Nam đã phát hiện hơn 106 loài mò, trong đó có 17 loài đặc hữu cho khu hệ mò Việt Nam; có 5 loài trong số 19 loài đã được xác định có vai trò truyền bệnh sốt mò trên thế giới (Nguyễn Văn Châu, 1994).
Một số đặc điểm hình thể của mò:
Thân dính liền thành một khối, có đầu giả, khiên (mai) ở mặt lưng.
Mò trưởng thành và thanh trùng có 8 chân, trên thân phủ đầy lông, kích thước 1 - 1,25 mm.
Ấu trùng mò có 6 chân, kích thước lúc đói 0,25 - 0,5 mm; lúc no kích thước có thể tăng gấp đôi. Thân ấu trùng mò hình bầu dục, có nhiều lông, mặt lưng có 1 khiên, hình dạng khiên biến đổi tùy theo từng loài: 4 cạnh, 5 cạnh hoặc 6 cạnh. Màu sắc của mò khác nhau: vàng, đỏ, trắng...
Cả mò trưởng thành và mò thanh trùng đều không đốt máu người và động vật. Chúng sống trong đất và ăn các bét khác, côn trùng nhỏ hoặc trứng bét. Ấu trùng mò hút máu ở da. Trứng sau khi nở ra ấu trùng, ấu trùng bò lên cỏ hoặc những bụi cây thấp, đám lá mục để đợi vật chủ là người hoặc động vật. Mò bám chặt vào da của bò sát, chim, thú, người đi qua hoặc nghỉ lại ở nơi chúng sống.
Ở người chúng chọn nơi bám là những nơi quần áo bó sát vào da, thắt lưng và mắt. Thời gian ấu trùng mò bám vào da vật chủ để hút máu từ 2 ngày đến 1 tháng tùy theo từng loài. Sau khi no, chúng rơi xuống, chui vào đất, phát triển thành thanh trùng và trưởng thành.
Mò phân bố rải rác trong những vùng rất nhỏ vì nhu cầu riêng của chúng. Mò thanh trùng và trưởng thành cần có điều kiện nhất định để sống, còn ấu trùng cần có những động vật làm vật chủ như: chuột hoang, các loài động vật gặm nhấm nhỏ và chim. Nơi thích hợp cho mò trưởng thành là những đồng cỏ, những vùng cây bụi, rừng, đồng lúa tốt tươi và những cánh rừng đã bị phát quang. Mò còn thấy cả ở những công viên, vườn, bãi cỏ và những nơi ẩm dọc theo bờ hồ, bờ suối. Vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới, các bụi tre là những nơi mò rất ưa thích.
Ở Việt Nam đã phát hiện hơn 106 loài mò thuộc 23 chi, 2 phân họ của họ Trombicuidae. Số lượng tập trung chủ yếu ở 2 chi: Leptotrombidium (28 loài) và Gahrliepia (20 loài).
Xem tiếp: Lớp nhện- Arachnida (P2)
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh