Hình ảnh viêm ruột thừa trên CT

Mở đầu

Ruột thừa hình con giun là cấu trúc hình ống hẹp, một đầu tận, xuất phát từ chỗ hội tụ của của ba dải cơ dọc đại tràng (taenia coli) ở mặt sau trong của manh tràng nằm giữa khỏng 1.7 và 2.5cm phía dưới của van hồi manh tràng. Ruột thừa thường có một mạc treo riêng hình tam giác gọi là mạc treo ruột thừa. Chiều dài ruột thừa từ 1-25cm, trung bình 8 cm. Ruột thừa có vị trí khá thay đổi và có thể nằm ở vùng chậu, sau manh tràng, trước hồi tràng, sau hồi tràng và cạnh manh tràng. Vị trí ở vùng chậu thường gặp nhất. Mối quan hệ giải phẫu hằng định của ruột thừa với van hồi manh tràng cho phép nhận ra trên siêu âm và CT.

Phần nguyên thuỷ của manh tràng và ruột thừa là túi thừa manh tràng và xuất hiện ở tuần thứ sáu của thai như là một chỗ phồng lên ở bờ đối diện mạc treo của phía đuôi quai mầm ruột. Người ta nghĩ ruột thừa có chức năng miễn dịch ở trẻ em nhưng ở người lớn là bộ phận thừa.

Hình 1: Hình ảnh ruột thừa bình thường trên CT
 

Viêm ruột thừa cấp

Kể từ khi được mô tả lần đầu tiên vào cuối thế kỷ thứ 19, viêm ruột thừa vẫn còn là cấp cứu ngoại khoa thường gặp nhất ở các nước phát triển và tỉ lệ tử vong còn từ 0.2 đến 0.8%. Chẩn đoán có thể khó trên lâm sàng và mặc dầu có ít nhất 250.000 ca cắt ruột thừa mỗi năm ở Mỹ, ruột thừa bình thường vẫn còn thấy trong phẫu thuật khoảng 15-20% trường hợp.

Bệnh sử của viêm ruột thừa thường là sự tắc lòng ống dẫn đến chướng lên do tụ dịch bên trong. Dẫn lưu tĩnh mạch và bạch huyết không hiệu quả cho phép vi khuẩn xâm lấn đến thành ruột thừa. Thủng và chảy mủ vào khoang phúc mạc có thể gây viêm phúc mạc hoặc tạo abscess.

Hậu quả của cắt ruột thừa âm tính gây dính trong ổ bụng, tác dụng phụ của gây mê và ảnh hưởng đến chất lượng sống do phẫu thuật không cần thiết. Tỉ lệ biến chứng sau cắt ruột thừa âm tính có thể lên đến khoảng 2%. Tuy nhiên thủng ruột thừa liên quan với biến chứng nhiều gấp 3 lần với tỉ lệ mổ lại cao hơn, nhiễm trùng huyết, vô sinh, hở vết mổ so với viêm ruột thừa đơn thuần.

Vì vậy, điều nhấn mạnh chính được đặt ra là chẩn đoán sớm và chính xác và cả dương tính giả và âm tính giả đều gây ra biến chứng. Khảo sát hình được sử dụng ngày cáng tăng trong thập niên qua nhằm mục đích cải thiện độ chính xác chẩn đoán. Một số nghiên cứu đã kết luận rằng hình ảnh học trong viêm ruột thừa cấp đã làm giảm cả việc cắt ruột thừa âm tính và tỉ lệ thủng.

 

Viêm ruột thừa trên CT

Dày thành ruột thừa và tăng bắt quang kèm xe sợi (stranding) mỡ quanh ruột thừa là các dấu hiệu quan trọng của viêm ruột thừa vì ruột thừa bình thường có thể có đường kinh đến 11mm do căng sinh lý và như đã nói ở trên, sử dụng đường kính ruột thừa không phải là dấu hiệu phụ đáng tin cậy. Sỏi vôi ruột thừa có thể gặp đến 30% trường hợp. Một “thanh manh tràng” (caecal bar) được nhìn thấy khi sỏi ruột thừa ở đầu gần bị tách khỏi lòng manh tràng bởi mô viêm của đáy ruột thừa và đỉnh manh tràng. Dấu hiệu “đầu mũi tên” là khi thành manh tràng bị dày lên hướng đến lỗ ruột thừa (Hình 2 và Hình 3). Nếu có viêm ruột thừa thì lòng ruột thừa sẽ không bị làm mờ với thuốc cản quang đường trực tràng. Dấu hiệu phụ trên Ct không tiêm cản quang là 30% ruột thừa bị viêm tăng đậm độ so với thành manh tràng kế cận.

Hình 2 Viêm ruột thừa cấp trên CT. Hình CT bụng cắt ngang sau khi uống thuốc cản quang và tiêm tĩnh mạch cho thấy viêm ruột thừa cấp với dày thành, xe sợi lớp mỡ quanh ruột thừa (nhiều hơn ở mạc treo ruột thừa) và dày cực manh tràng), mũi tên trắng vạch ra sự xe sợi mỡ của mạc treo ruột thừa.

Hình 3 Viêm ruột thừa cấp trên CT với dấu hiệu đầu mũi tên. Hình Axial CT với thuốc cản quang đường uống, trực tràng và tĩnh mạch. Ruột thừa ở vùng chậu bị dày và viêm với dày rõ rệt cực manh tràng tạo thành dấu hiệu đầu mũi tên (mũi tên đen).

return to top