✴️ Ứng dụng lâm sàng của chuỗi xung CISS 3D trong bệnh lý thần kinh

Nội dung

Chuỗi xung tình trạng bền vững (steady-state) là kiểu chuỗi xung GRE trong đó phần từ hóa ngang còn lại được tái tập trung vì vậy cường độ bền vững của từ hóa dọc và từ hóa ngang đạt được sau một số chu kỳ thời gian lặp lại (TR). Khi đạt được tình trạng bền vững, hai loại tín hiệu được tạo ra là suy giảm tín hiệu tự do (free induction decay-S+) và spin echo (S-). Chuỗi xung đảo tự do trong tình trạng cân bằng bền vững (Balanced-Steady State Free PrecessionSSFP) (TrueFISP ở máy Siemens, FIESTS ở máy GE và balanced TFE ở máy Philips) sử dụng cả hai loại tín hiệu (S+ và S-) để tạo ảnh. CISS là một biến thể của TrueFISP. Hai quá trình liên tiếp nhau của sự đảo tự do trong tình trạng cân bằng bền vững 3D được kết hợp với nhau, một cái với các xung xen kẽ góc +α và –α (trong đó α là góc bật) và một cái khác có các xung α hằng định

CÁC ỨNG DỤNG LÂM SÀNG

Do các đặc điểm vừa nêu trên, chuỗi xung CISS đóng vai trò quan trọng trong đánh giá các cấu trúc được bao quanh bởi dịch não tủy. Nó giúp thấy rõ các tổn thương đồng tín hiệu với dịch não tủy trên T1W và T2W.

1. Đánh giá thần kinh sọ

1.1. Dây thần kinh VII-VIII

CISS 3D thường dùng để đánh giá các tổn thương góc cầu tiểu não, các cấu trúc tai trong và ống tai trong. Trên chuỗi xung này, thấy rõ cấu trúc dây thần kinh VII và VIII nhỏ, tiền đình màng của tai trong. Điều này tạo thuận lợi cho việc phát hiện các tổn thương nhỏ trong ống tai trong và chẩn đoán nguyên ủy thần kinh phụ thuộc vào vị trí chính xác trong ống tai trong. Nó giúp chẩn đoán chính xác u tế bào Swann (schwannoma) xuất phát từ thần kinh ốc tai (hình 1). Hình CISS có thể thực hiện ở bất kỳ mặt phẳng nào, nhưng thường dùng nhất là mặt phẳng cắt ngang (axial) cho hình ảnh thần kinh sọ. Tuy nhiên, để đánh giá phức hợp dây thần kinh VII-VIII, tốt hơn là nên sử dụng hình ảnh thu được từ mặt phẳng đứng ngang (coronal) hoặc mặt phẳng đứng dọc chếch (oblique sagittal) vuông góc với ống tai trong hoặc tái tạo từ mặt phẳng cắt ngang. CISS có ưu thế đáng kể hơn chuỗi xung 3D turbo spin echo (TSE) để nhìn thần kinh trong góc cầu tiểu não và tương đương với 3D TSE trong ống tai trong. Chuỗi xung CISS nên đưa vào quy trình khảo sát hình ảnh MRI thần kinh VII và VIII .

CISS 3D là một công cụ quan trọng để đánh giá ống tai trong và các bất thường gây điếp tiếp nhận Tính toàn vẹn của ốc tai, bất thường cấu trúc tiền đình  trong trường hợp dị dạng, xốp xơ tai và viêm tiền đình cốt hóa có thể thấy tốt nhất trên chuỗi xung này.

1.2. Đau dây thần kinh V và co giật nửa mặt

Đau dây thần kinh V thông thường nhất là do quai mạch máu chèn ép gốc thần kinh V. Quai mạch máu chèn ép và đẩy lệch dây thần kinh được đánh giá tốt trên chuỗi xung CISS [hình 3]. Hầu hết các trường hợp là do động mạch tiểu não trên chèn ép. CIS 3D có độ phân giải không gian cao giữa thần kinh và dịch não tủy so với chụp mạch MR (MRA). Khác với MRA, CISS 3D cũng cho thấy cấu trúc tĩnh mạch cạnh dây thần kinh. Mô tả tĩnh mạch cạnh dây thần kinh cũng quan trọng để dự báo tái phát đau dây thần kinh V có thể xảy ra sau khi phẫu thuật giải ép vi mạch. Người ta đề nghị CISS là thủ thuật tầm soát ban đầu cho tất cả các bệnh nhân đau thần kinh V kháng trị, đặc biệt nếu xem xét đến can thiệp phẫu thuật. CISS 3D có tiêm thuốc tương phản giúp đánh giá hạch thần kinh sinh ba và đoạn trong bể của thần kinh này.

Mạch máu chèn ép dây thần kinh VII có thể gây  co giật nửa mặt và có thể nhìn rõ nhất trên xung CISS 3D (hình 2).

1.3. Dây thần kinh thị

Khối hốc mắt có thể xuất phát từ thần kinh thị (chẳng hạn như u thần kinh đệm thần kinh thị) hoặc các thần kinh khác trong hốc mắt (như u bao dây). Cả hai u này đều có thể gặp ở bệnh nhân đa u sợi thần kinh. Chuỗi xung CISS có thể xác định mối liên quan của u với thần kinh thị và phân biệt các u này dựa vào vị trí u, độ dày và sự bao bọc thần kinh thị.

1.4. Mất khứu giác bẩm sinh

Một trong những nguyên nhân quan trọng của mất khứu giác bẩm sinh đơn độc là hội chứng Kallmann, có đặc điểm là suy sinh dục do thiếu hormon sinh dục và mất khứu giác hoặc giảm khứu giác. Mất khứu giác hoặc giảm khứu giác liên quan với hội chứng Kallmann, phân biệt với suy sinh dục do thiếu hormon sinh dục khác. Mất khứu giác/giảm khứu giác do giảm sản hành khứu. MRI là một khảo sát quang trọng trong chẩn đoán hội chứng Kallman. Chuỗi xung CISS 3D là một công cụ quan trọng để đánh giá hành khứu.

2. Đánh giá các khoang bể não và xoang hang

2.1. Dò dịch não tủy qua mũi

Chụp bể não cộng hưởng từ (MR cisternography) sử dụng chuỗi xung CISS 3D là một kĩ thuật không xâm lấn và chính xác để phát hiện dò dịch não tủy trong trường hợp chảy dịch não tủy qua mũi. Chụp bể não CT là phương pháp xâm lấn do tiêm thuốc cản quang vào khoang dịch não tủy. Trong chụp bể não MRI, dịch não tủy có tương phản tự nhiên. CISS 3D có thể phát hiện vị trí dò [hình 3]. Cần khảo sát ở vị trí nằm sấp để dễ thấy dò dịch não tủy.

2.2. Đánh giá viêm và bệnh lý ác tính

Các bệnh lý ác tính và nhiễm trùng như mô hạt viêm có thể lan dọc theo các bể nền. Các mô hạt viêm là các cấu trúc dạng nốt ở bể và liên quan với thần kinh sọ. Trong khi các quá trình nhiễm trùng thường được đánh giá trên hình tiêm thuốc tương phản, cần nhớ rằng các nốt hoặc thâm nhiễm bể nền cũng nhìn thấy rõ trên xung CISS và đôi khi có thể bị bỏ sót trên các chuỗi xung khác nếu đồng tín hiệu với dịch não tủy và không bắt thuốc.

2.3. Nang màng nhện

Nang màng nhện có tín hiệu tương đương dịch não tủy trên các chuỗi xung và có thành mỏng. Trong trường hợp sau phẫu thuật, CISS có thể giúp phân biệt giữa nang màng nhện tái phát và hang sau phẫu thuật do dính.

2.4. Chẩn đoán sán dải heo thần kinh (neurocysticercosis)

Cần nhận diện đầu sán để có chẩn đoán xác định sán dải heo thần kinh. CISS 3D ưu thế hơn chuỗi xung T2W thường quy trong việc đánh giá nang trong não thất. Đầu sán có thể bỏ sót trên các chuỗi xung thường quy, nhưng CISS 3D có thể thấy được  [hình 4]. Nên dùng chuỗi xung CISS 3D nếu nghi ngờ sán dải heo thần kinh.

Nang sán trong não thất chiếm 7-20% nhiễm sán dãi heo thần kinh. Hầu hết các nang này thường nằm ở não thất IV. Vì nang được bao bọc bởi dịch não tủy, đồng tín hiệu với dịch trong nang nên có thể khó phân biệt trên các chuỗi xung thường quy. Tuy nhiên, thành nang và đầu sán nhìn rất rõ trên CISS 3D. Độ nhạy tăng của CISS 3D là do tỉ lệ tương phản độ nhiễu cao hơn.

3. Ứng dụng trong hình ảnh cột sống (MR myelography)

3.1. Bệnh lý thoái hóa cột sống

Chuỗi xung CISS tương đương với chụp quang bao rễ thần kinh (Myelography) trong việc mô tả bao màng cứng và bao rễ thần kinh trong lỗ liên hợp. Do lát cắt mỏng, có thể thu được hình ảnh của rễ thần kinh để xác định rõ chèn ép rễ thần kinh trong trường hợp chuỗi xung spin echo thường quy không rõ ràng. Điều này đặc biệt thấy rõ trong trường hợp thoát vị đĩa đệm trong lỗ liên hợp hoặc ngoài lỗ liên hợp. Có thể dùng chuỗi xung này trong trường hợp bệnh lý rễ nặng không giải thích được trên chuỗi xung thường quy.

3.2. Biến chứng rách bao màng cứng sau phẫu thuật cột sống

Giả thoát vị màng tủy là biến chứng có thể gặp sau phẫu thuật cột sống. MRI có chuỗi xung CISS có thể chứng minh vị trí rách màng cứng.

3.3. Hình ảnh chùm đuôi ngựa

Chụp MR bao rễ thần kinh bằng chuỗi xung CISS cung cấp cho phẫu thuật viên hình ảnh dễ nhìn của chùm đuôi ngựa. Giật đứt rễ thần kinh trong tổn thương đám rối cánh tay có thể chứng minh rõ. Mặc dù các chuỗi xung MRI thường quy đủ để mô tả u cột sống, hình ảnh CISS có thể xác định rõ hơn vị trí giải phẫu và cung cấp thông tin bổ sung cho phẫu thuật viên.

Tác giả: Cao Thiên Tượng, Lê Văn Phước

 

 

return to top