Thuốc chẹn beta giao cảm được chứng minh trong điều trị bệnh tim mạch, giảm tỉ lệ tử vong và bệnh tật. Phần lớn các thuốc chẹn beta hấp thu tốt qua đường uống. Thuốc chẹn beta thế hệ thứ ba có thêm tác dụng dãn mạch. Hiện tại, thuốc chẹn beta sử dụng trong nhiều chỉ định bệnh tim mạch. Bằng chứng mạnh nhất trong chỉ định điều trị suy tim tâm thu, sau nhồi máu cơ tim. Chẹn beta hiện tại cũng được khuyến cáo là thuốc đầu tiên trong điều trị tăng huyết áp trong các Hướng Dẫn mới.
Trong bài viết này, Chúng tôi viết về đặc điểm dược học và các chỉ định lâm sàng, nghiên cứu và các khuyến cáo về thuốc chẹn beta thế hệ mới.
Thuốc Chẹn beta giao cảm lần đầu tiên được Ngài James Black phát hiện ở Anh năm 1962 và Ngài James Black được trao giải Nobel Y học năm 1988 cho phát minh này.
Chẹn beta giao cảm là 1 trong 4 nhóm thuốc được chứng minh giảm tỉ lệ tử vong và bệnh tật ở bệnh nhân tim mạch, 3 nhóm khác là: ức chế men chuyển (ức chế thụ thể angiotensin II), statin, chống ngưng tập tiểu cầu.
Có 3 thế hệ thuốc chẹn beta (Bảng 1):
Bảng 1. Các thế hệ thuốc chẹn beta |
||
|
Đặc điểm |
Thuốc |
Thế hệ 1 |
Không chọn lọc + Không dãn mạch |
Propranolol, Timolol, Nadolol, Sotalol |
Thế hệ 2 |
Chọn lọc thụ thể beta 1 |
Atenolol, Bisoprolol,
Metoprolol |
Thế hệ 3 |
Dãn mạch + Không chọn lọc |
Carvedilol, Bucindolol |
Dãn mạch + Chọn lọc thụ thể beta 1 |
Nebivolol |
Bảng 2. Các khuyến cáo điều trị thuốc chẹn beta trong bệnh tim mạch |
|||
|
Khuyến cáo |
Chỉ định |
Mức độ bằng chứng |
Tăng huyết áp |
|||
Hướng Dẫn của Hiệp hội tim mạch Châu Âu 2013 |
Chẹn beta chỉ định điều trị khởi đầu hoặc phối hợp ở bệnh nhân tăng huyết áp |
I |
A |
Hướng Dẫn của Hiệp hội tăng huyết áp Canada 2015 |
Ø > 60 tuổi: chẹn beta điều trị phối hợp ở bệnh nhân tăng huyết áp.
Ø ≤ 60 tuổi : Chẹn beta chỉ định điều trị khởi đầu hoặc phối hợp ở bệnh nhân tăng huyết áp |
|
|
Suy tim |
|||
Hướng Dẫn của Hiệp hội tim mạch và trường môn tim mạch Hoa Kỳ năm 2013 |
Chỉ định chẹn beta cho tất cả bệnh nhân có suy tim hoặc tiền sử suy tim có phân xuất tống máu giảm (< 40%), ngoại trừ chống chỉ định, để giảm tỉ lệ tử vong và bệnh tật. |
I |
A |
Hướng Dẫn của Hiệp hội tim mạch Châu Âu năm 2012 |
Chẹn beta chỉ định ở tất cả bệnh nhân suy tim có phân xuất tống máu giảm (< 40%) để giảm tỉ lệ nhập viện do suy tim và tử vong. |
I |
A |
Bệnh mạch vành |
|||
Hướng Dẫn của Hiệp hội tim mạch và trường môn tim mạch Hoa Kỳ năm 2012 |
Chẹn beta chỉ định ở tất cả bệnh nhân trong và sau hội chứng mạch vành cấp có chức năng thất trái bình thường hoặc phân xuất tống máu giảm, nếu không có chống chỉ định. |
I |
B |
Thuốc chẹn beta thế hệ mới đặc biệt là Nebivolol, một thuốc chẹn beta thế hệ thứ 3 có những ưu điểm:
Nitric Oxide được sinh ra ở lớp nội mạc mạch máu, có tác dụng giảm kết dính và giảm viêm ở thành nội mạc. Quá trình này sẽ ngăn chẹn rối loạn chức năng nội mạc mạch máu, tăng dãn mạch, có tác dụng giảm huyết áp và giảm khối thất trái, cải thiện xơ cứng mạch máu. Nebivolol tạo ra Ntiric Oxide qua việc kích thích thụ thể beta-3, sự sản xuất Nitric Oxide xảy ra ở cả mạch máu và tim.
Nitric Oxide sản xuất tại nội mạc mạch máu làm giãn mạch dẫn đến tăng dòng máu đến các cơ làm tăng sự hấp thụ đường và kích thích insulin. Vì vậy, các chẹn thụ thể beta thế hệ mới có tác dụng giãn mạch có tác dụng làm giảm đề kháng insulin, Nghiên cứu lâm sàng cho thấy: chỉ số nhạy cảm insulin tăng hơn ở nhóm bệnh nhân dùng thuốc chẹn beta thế hệ mới có dãn mạch (như Nebivolol) so với nhóm không có tính chất dãn mạch.
Nghiên cứu SENIORS, ngẫu nhiên, mù đôi, đa trung tâm, có nhóm chứng, gồm 2128 bệnh nhân tuổi trung bình 76 tuổi, có phân xuất tống máu giảm < 35% hoặc suy tim, được điều trị bằng Nebivolol hoặc giả dược. Kết quả cho thấy: giảm tỉ lệ tử vong do mọi nguyên nhân ở nhóm điều trị Nebivolol so với nhóm giả dược; Đồng thời tỉ lệ tác dụng phụ hoặc cần ngưng thuốc tương giữa 2 nhóm.
Các thuốc chọn lọc thụ thể beta-1 ưa thích sử dụng hơn ở bệnh nhân: bệnh phổi mạn tính, hút thuốc lá, đái tháo đường có sử dụng insulin, và dự phòng đột quỵ.
Bệnh nhân điều trị thuốc chọn lọc chẹn beta-1 có độ thay đổi huyết áp tâm thu ít hơn so với nhóm bệnh nhân điều trị thuốc chẹn beta không chọn lọc. Do đó, giảm tỉ lệ đột quỵ ở nhóm bệnh nhân dùng thuốc chọn lọc chẹn thụ thể beta-1 so với nhóm dùng chẹn thụ thể beta thế hệ cũ.
Hai phân tích gộp, bệnh nhân điều trị thuốc chẹn chọn lọc thụ thể beta-1 có bệnh kèm COPD, kết quả cho thấy không có sự khác biệt về tiến triển nặng COPD giữa nhóm điều trị và Placebo.
Thuốc chẹn beta thế hệ thứ nhất có thể làm tăng Triglyceride và giảm HDL-Cholesterol máu. Điều này được giải thích qua cơ chế: Thuốc ức chế thụ thể beta sẽ ức chế hoạt động của men lipoprotein lipase, sự giảm hoạt động của men lipoprotein lipase sẽ làm tăng triglyceride và giảm HDL. Do đó, các thuốc ức chế chọn lọc thụ thể beta-1 ít ảnh hưởng lên chuyển hoá lipid qua cơ chế này.
Rối loạn cương dương thường xảy ra trên bệnh nhân nam giới tăng huyết áp, thường do tác dụng phụ của thuốc điều trị tăng huyết áp trong đó có thuốc chẹn thụ thể beta.
Nitric oxide đóng vai trò chủ yếu của chức năng cương dương qua trung gian sự dãn cơ xốp của thể hang. Các thuốc chẹn thụ thể beta thế hệ thứ 3 có tác dụng dãn mạch qua cơ chế tăng phóng thích Nitric Oxide làm tăng khả năng cương dương. Nghiên cứu trên 131 người đàn ông điều trị tăng huyết áp: số giai đoạn hài lòng trong quan hệ tình dục không thay đổi ở bệnh nhân trước và sau điều trị Nebivolol. Kết quả tương tự cũng được kết luận ở bệnh nhân sau mổ bắc cầu mạch vành có dung Nebivolol.
Chẹn thụ thể beta là nhóm thuốc quan trọng trong điều trị bệnh tim mạch: tăng huyết áp, suy tim, bệnh mạch vành. Tuy nhiên, những bận tâm về tác dụng phụ và dung nạp của thuốc làm giới hạn sử dụng thuốc trong thực hành lâm sàng. Tính chất dược lý học của thuốc chẹn beta thế hệ mới làm cải thiện quả lâm sàng, tăng tính dung nạp, giảm tác dụng phụ. Kết quả được chứng minh qua các nghiên cứu lâm sàng.
Nebivolol là chẹn beta thế hệ thứ ba có ưu điểm dãn mạch qua cơ chế tăng tiết Nitric oxide, và có tính chọn lọc thụ thể beta-1 ở tim rất cao làm cho thuốc có hiệu quả cao trong điều trị bệnh tim mạch cũng như giảm tác dụng phụ, tăng tính dung nạp thuốc.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh