Có phải tất cả bệnh nhân tim mạch đều được khuyên nên tiêm vắc-xin hay có các tiêu chuẩn loại trừ cụ thể nào không?
Điều quan trọng là tất cả bệnh nhân mắc các bệnh tim mạch nên được tiêm chủng phòng ngừa COVID-19. Vắc xin hoàn toàn ngăn mọi người không lây nhiễm COVID -19, nhưng nó sẽ làm giảm khả năng mắc bệnh nghiêm trọng có thể phải nhập viện và có thể dẫn đến tử vong.
Những người bị bệnh tim có thể có nhiều nguy cơ tử vong do COVID-19 vì nhiễm trùng gây quá tải cho tim thông qua một số cơ chế, bao gồm cả tình trạng viêm trực tiếp ở tim. Vì vậy, điều cần thiết là tất cả bệnh nhân bị bệnh tim phải chấp nhận việc tiêm chủng khi được đề nghị. Trừ khi bạn có chống chỉ định nói chung với tiêm chủng như đang dùng thuốc ức chế miễn dịch liều cao, đang bị bệnh lý cấp tính, phụ nữ có thai, cho con bú… Để có thông tin chi tiết thêm về các đối tượng này xin tham khảo trong hướng dẫn tiêm chủng vaccine COVID -19 của Bộ Y tế.
Bệnh nhân bị bệnh tim mạch thường bao gồm những mặt bệnh sau: người bị tăng huyết áp, rung nhĩ, đau thắt ngực, bệnh cơ tim, bệnh tim bẩm sinh, tiểu đường, sa sút trí tuệ, suy tim, ghép tim, huyết khối, thuyên tắc phổi, bệnh mạch máu ngoại vi (xơ vữa động mạch), đột quỵ não hoặc cơn thiếu máu não cục bộ thoáng qua.
Có bất kỳ tương tác nào của vắc-xin với các thuốc chữa bệnh tim không?
Không có báo cáo về tương tác giữa vắc-xin và thuốc điều trị bệnh tim. Điều cần thiết là không được bỏ các loại thuốc điều trị bệnh tim trước hoặc sau khi tiêm vắc-xin. Một số bệnh nhân đang sử dụng thuốc chống đông máu có thể bị đau, sưng và bầm tím xung quanh vết tiêm
Tôi đang dùng thuốc chống đông máu và thường xuyên tiêm vắc-xin, như tiêm phòng cúm mùa, loại này chỉ tiêm dưới da, không tiêm vào cơ do nguy cơ chảy máu. Tôi nghe nói phải tiêm vắc xin COVID-19 vào bắp thịt. Tôi nên làm gì để giảm nguy cơ bị chảy máu của mình?
Nhiều bệnh nhân bị bệnh tim dùng thuốc chống đông máu như warfarin (hay còn gọi là thuốc đối kháng vitamin K) hoặc thuốc chống đông máu đường uống trực tiếp (DOACS) như Xarelto, Pradaxa... Một số bệnh nhân cũng dùng thuốc chống kết tập tiểu cầu như aspirin, clopidogrel, ticagrelor hoặc prasugrel. Những bệnh nhân này có nhiều nguy cơ bị chảy máu sau chấn thương, bao gồm cả việc bị kim đâm vào cơ bắp tay khi tiêm chủng COVID-19. Có thể dự đoán rằng nguy cơ bầm tím hoặc sưng tấy xung quanh vết tiêm sẽ tăng nhẹ ở những bệnh nhân này.
Cách khắc phục: nhân viên y tế sẽ sử dụng một cây kim nhỏ (cỡ 23 hoặc 25) để tiêm chủng, sau đó ấn mạnh vào vết thương mà không cọ xát trong ít nhất hai phút. Bệnh nhân cần được thông báo về nguy cơ tụ máu do tiêm. Bệnh nhân đang sử dụng warfarin, cần có kết quả xét nghiệm INR theo lịch trình và với INR trong ngưỡng cho phép có thể được tiêm bắp.
Không giống như vắc-xin cúm, vắc-xin COVID-19 chỉ có thể được tiêm dưới dạng tiêm bắp.
Tôi uống thuốc ức chế miễn dịch do ghép tim. Thuốc ức chế miễn dịch có thể xung đột với vắc-xin COVID-19 không?
Các vắc-xin hiện được chấp thuận sử dụng không chứa vi-rút sống, do đó, không có nguy cơ gây nhiễm trùng cho những bệnh nhân có hệ miễn dịch kém, kể cả những bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế miễn dịch. Các vắc-xin hiện tại bao gồm vật chất di truyền của vi rút được đưa vào tế bào và thúc đẩy quá trình tổng hợp một protein đột biến của vi rút. Chỉ riêng protein đột biến là vô hại nhưng đủ để được công nhận là ngoại lai và kích hoạt phản ứng phòng vệ của hệ thống miễn dịch. Trong trường hợp gặp phải vi rút thực sự trong cơ thể, hệ thống miễn dịch ghi nhớ sẽ phản ứng mạnh mẽ với protein tăng đột biến để tiêu diệt vi rút.
Những bệnh nhân có phản ứng miễn dịch bị suy giảm (như điều trị các thuốc ức chế miễn dịch, thuốc chống thải ghép) có thể không đáp ứng mạnh với vắc xin chủng ngừa và sẽ phải tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng ngừa bổ sung ngay cả khi đã được tiêm chủng.
Tình trạng bệnh tim có làm cho tôi dễ bị biến chứng hoặc dễ bị chống chỉ định (đặc biệt là sốc phản vệ) hơn không?
Hiện tại không có bằng chứng nào cho thấy tình trạng bệnh tim làm tăng nguy cơ bị chống chỉ định đối với vắc-xin. Như với tất cả các trường hợp, bệnh nhân bị bệnh tim nên thông báo cho các chuyên gia chăm sóc sức khỏe nếu họ đã từng bị phản ứng phản vệ nghiêm trọng với vắc-xin tiêm và họ không nên chủng ngừa. Những người đã có phản ứng nghiêm trọng với các chất khác (không liên quan đến vắc-xin), ví dụ như thuốc uống hoặc thức ăn..., vẫn có thể tiêm được vắc-xin nhưng sẽ cần được theo dõi tại phòng khám trong tối đa 30 phút sau đó. Bệnh nhân nên tránh tiêm vắc-xin trong thời gian đang bị sốt (bệnh lý khác gây sốt).
Thời điểm tiêm vắc xin nếu đang điều trị ung thư?
Hầu hết bệnh nhân sau mổ, đang hóa trị, xạ trị, điều trị đích, điều trị miễn dịch đều có thể tiêm vắc xin COVID-19.
Phương pháp điều trị |
Thời điểm tiêm chủng |
Ghi chú |
Phẫu thuật |
Trước phẫu thuật ít nhất 1 tuần hoặc sau khi đã bình phục sau phẫu thuật và xuất viện |
|
Xạ trị |
Bất kỳ thời điểm nào (trừ trường hợp xạ toàn thân hoặc đang có tác dụng phụ nặng) |
Bộ y tế Việt Nam khuyến cáo: sau xạ trị ít nhất 14 ngày |
Hóa chất |
1-2 tuần trước hoặc sau hóa chất (khi bạch cầu hạt về bình thường) |
Bộ y tế Việt Nam khuyến cáo: sau hóa trị ít nhất 14 ngày |
Điều trị đích |
Bất kỳ thời điểm nào |
|
Điều trị miễn dịch |
Bất kỳ thời điểm nào |
|
Ghép tủy |
Sau ghép ít nhất 3 tháng |
|
Liệu pháp tế bào (CART-T cell, NK) |
Sau điều trị ít nhất 3 tháng |
|
Cần chú ý gì đối với bệnh nhân ung thư trước khi tiêm vắc xin?
Đối với các bệnh nhân ung thư và đang điều trị ung thư, điều quan trọng là phải nói chuyện với bác sỹ điều trị của mình trước khi tiêm liều đầu tiên của bất kỳ loại vắc – xin nào. Loại ung thư và phương pháp điều trị của bệnh nhân sẽ là một yếu tố để xem xét. Bác sỹ điều trị ung thư sẽ thảo luận về rủi ro, lợi ích, lịch trình và những điều bệnh nhân ung thư nên lưu ý trước khi tiêm liều vắc - xin đầu tiên.
Sau khi tiêm phòng, một số người có thể nổi hạch bạch huyết. Nổi hạch bạch huyết thường xảy ra nhất ở dưới cánh tay hoặc ở cổ bên cạnh chỗ tiêm chủng. Vì ung thư cũng có thể gây ra hạch to nên điều quan trọng là bệnh nhân ung thư phải nhận ra đây là một tác dụng phụ có thể xảy ra và thường không phải là dấu hiệu cho thấy ung thư của họ đang tiến triển.
Bác sỹ điều trị có thể tư vấn về thời gian tiêm chủng liên quan đến việc điều trị ung thư của bệnh nhân. Tùy thuộc vào các phương pháp điều trị ung thư đang thực hiện, bác sỹ có thể có những cân nhắc đặc biệt khác cho bệnh nhân ung thư khi tiêm vắc-xin.
Cuối cùng, điều quan trọng cần lưu ý là những bệnh nhân ung thư có xu hướng bị suy yếu hệ thống miễn dịch, điều này có thể làm cho vắc-xin kém hiệu quả hơn. Hiện tại, vắc-xin mRNA cung cấp khả năng bảo vệ 94 - 95% khỏi vi-rút Sars-Covi-2 trong khi vắc-xin Johnson & Johnson có hiệu quả 66% trong việc ngăn ngừa bệnh COVID-19 vừa và nặng sau 28 ngày tiêm chủng và 85% hiệu quả trong việc ngăn ngừa nhập viện. Nhưng rất khó để biết liệu bệnh nhân ung thư có cùng mức độ đáp ứng đó hay không. Do đó, điều quan trọng là tất cả chúng ta phải tiếp tục tuân theo các khuyến nghị về an toàn trong một thời gian nữa, bao gồm vệ sinh tay đúng cách, tuân thủ các nguyên tắc về giãn cách xã hội và thể chất cũng như tiếp tục đeo khẩu trang ngay cả sau khi đã được tiêm phòng.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh