Xơ vữa động mạch là một bệnh trong đó bên trong động mạch bị thu hẹp do sự tích tụ của các mảng bám. Ban đầu, nhìn chung không có triệu chứng nào. Khi nghiêm trọng, bệnh này có thể dẫn đến bệnh động mạch vành, động mạch ngoại biên, đột quỵ hoặc các bệnh về thận
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người mắc bệnh tiểu đường có nguy cơ bị xơ vữa động mạch cao hơn.
Tình trạng xơ vữa động mạch có thể do nồng độ cholesterol lipoprotein mật độ thấp (LDL) tăng có xu hướng tích tụ trên thành mạch máu và làm giảm mức cholesterol lipoprotein mật độ cao (HDL) - hoạt động như một phương tiện mang các phân tử cholesterol dư thừa đến gan. Vì lý do này mà LDL thường được gọi là cholesterol "xấu" và HDL là cholesterol "tốt".
Định lượng cholesterol nhằm đánh giác mức độ HDL tốt trong việc di chuyển cholesterol dư thừa ra khỏi mạch máu là một cách hữu ích và chính xác hơn là chỉ dựa vào một mình chỉ số HDL mà một người có trong máu.
Kết quả nghiên cứu ở chuột cho thấy việc tăng mức cholesterol tốt giúp giải quyết căn bệnh xơ vữa động mạch do sự tích tụ cholesterol vượt xa những gì thuốc hiện có có thể đạt được.
Những can thiệp này đã giúp tăng mức HDL và các nhà khoa học nhận thấy rằng điều này đã thúc đẩy sự đảo ngược chứng xơ vữa động mạch lên đến 30% ở những con chuột cũng được điều trị để giảm mức LDL.
Các nhà nghiên cứu thấy rằng sự gia tăng HDL giúp giảm các mảng xơ vữa động mạch khoảng 50%. Hơn nữa, mức "cholesterol tốt" cao hơn giúp giảm hoạt động của bạch cầu trung tính gây giảm lưu lượng máu trong chứng xơ vữa động mạch.
Các bác sĩ khuyên rằng mọi người nên duy trì mức cholesterol lipoprotein mật độ cao (HDL) ở mức an toàn giúp ngừa bệnh tim và đột quỵ.
Một nghiên cứu nhằm kiểm tra mối liên hệ giữa mức cholesterol "tốt" và nguy cơ đau tim và tử vong do tim mạch ở trung bình gần 6.000 người ở độ tuổi 63 và đa phần trong số họ có các bệnh lý về tim mạch.
Các nhà nghiên cứu đã theo dõi trong suốt 4 năm, phân nhóm chúng theo mức cholesterol HDL của họ, được đo bằng miligam trên mỗi decilit (mg/dL). Trong thời gian theo dõi, 13% những người tham gia bị đau tim hoặc chết vì bệnh tim mạch.
Những người tham gia có mức cholesterol HDL là 41 đến 60 mg/dL ít có khả năng bị đau tim hoặc tử vong do biến cố tim mạch.
Tuy nhiên, đối với những người có mức cholesterol HDL rất thấp (dưới 41 mg/dL) và những người có mức rất cao (cao hơn 60 mg/dL), nguy cơ xảy ra các bệnh lý tim mạch và tử vong tăng lên.
Cụ thể, những người có mức cholesterol cao hơn 60 mg/dL có khả năng bị đau tim hoặc tử vong vì bệnh tim mạch cao hơn gần 50% so với những người có mức 41 đến 60 mg/dL.
Kết quả trên đã chứng minh được rằng mức cholesterol HDL rất cao không bảo vệ được khỏi các biến chứng về tim mạch.
Có lẽ đã đến lúc đặt ra liệu có nên thay đổi cách nhìn nhận về cholesterol HDL. Một số quan điểm trước đây cho rằng cholesterol 'tốt' càng cao thì càng tốt. Tuy nhiên, kết quả từ nghiên cứu này cho thấy điều này có thể không còn phù hợp nữa.
Hiện chưa có một công bố chính thức cho nghiên cứu này, tuy nhiên lời giải thích được chấp nhận cho vấn đề này là mức cholesterol HDL quá cao gây rối loạn chức năng HDL khiến bệnh nhân có nguy cơ cao tử vong vì các bệnh tim mạch hơn.
Tìm hiểu thêm: Điều trị tăng triglyceride máu và rối loạn lipid máu hỗn hợp
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh