Peginterferon alfa-2a 180 mcg/0,5ml
Viêm gan B mạn tính: Pegasys được chỉ định để điều trị viêm gan B mạn tính trong cả hai trường hợp HBeAg dương tính lẫn HBeAg âm tính ở những bệnh nhân không xơ gan hoặc bệnh nhân xơ gan có bệnh gan còn bù và có bằng chứng của sự sao chép vi rút và viêm gan.
Viêm gan C mạn tính: Pegasys được chỉ định dùng đơn trị hoặc phối hợp với Copegus (ribavirin) để điều trị viêm gan C mạn tính ở những bệnh nhân không bị xơ gan và bệnh nhân xơ gan có bệnh gan còn bù. Phác đồ phối hợp Pegasys và Copegus được chỉ định cho các bệnh nhân mới điều trị lần đầu và các bệnh nhân đã điều trị thất bại trước đó với interferon alpha (dạng cải tiến peginterferon hoặc dạng cổ điển) dùng đơn trị hay phối hợp với ribavirin.
Viêm gan B mạn tính
Liều khuyên dùng của Pegasys cho viêm gan B mạn tính trong cả hai trường hợp HBeAg dương tính lẫn HBeAg âm tính là 180mcg, mỗi tuần một lần, tiêm dưới da bụng hoặc đùi. Thời gian điều trị được khuyến cáo là 48 tuần.
Viêm gan C mạn tính
Liều khuyên dùng của Pegasys, dùng đơn trị hoặc phối hợp với Copegus (ribavirin), là 180mcg mỗi tuần một lần, tiêm dưới da bụng hoặc đùi. Copegus nên được dùng kèm với thức ăn. Thời gian dùng Pegasys đơn trị được khuyến cáo là 48 tuần.
Thời gian điều trị phối hợp và liều hàng ngày của Copegus trong điều trị phối hợp với Pegasys được xác định tùy theo kiểu gien (genotype) của vi rút.
Các bệnh nhân nhiễm HCV kiểu gien 1 xét nghiệm có HCV RNA dương tính tại thời điểm 4 tuần cần dùng phác đồ điều trị 48 tuần bất kể số lượng virus trước điều trị. Phác đồ 24 tuần có thể cân nhắc ở các bệnh nhân kiểu gien 1 có lượng virus thấp (low viral load - LVL) (≤ 800.000 IU/ml) trước khi bắt đầu điều trị hoặc kiểu gien 4 xét nghiệm HCV RNA âm tính ở tuần thứ 4 và duy trì tình trạng HCV RNA âm tính ở tuần thứ 24. Tuy nhiên phác đồ 24 tuần có thể kèm theo nguy cơ tái phát cao hơn so với điều trị 48 tuần. Ở các bệnh nhân này, khả năng dung nạp phác đồ điều trị phối hợp và các yếu tố tiên lượng như mức độ xơ gan cần được cân nhắc khi quyết định thời gian điều trị. Cần cân nhắc kỹ lưỡng hơn nữa khi quyết định rút ngắn thời gian điều trị ở bệnh nhân nhiễm virus kiểu gien 1 và có số lượng virus cao trước khi điều trị (high viral load - HVL) (> 800.000 IU/ml) khi xét nghiệm HCV RNA âm tính ở tuần 4 và duy trì được tình trạng đó tới tuần thứ 24 do các dữ liệu hạn chế cho thấy điều đó có thể có tác động xấu tới khả năng đáp ứng virus bền vững
Các bệnh nhân nhiễm virus kiểu gien 2 hoặc 3 xét nghiệm HCV RNA dương tính tuần thứ 4 cần được điều trị 24 tuần bất kể số lượng virus trước điều trị. Phác đồ điều trị 16 tuần có thể được cân nhắc chọn lọc ở một số bệnh nhân có kiểu gien 2 hoặc 3 với số lượng virus trước điều trị thấp và xét nghiệm HCV RNA âm tính ở tuần thứ 4. Tổng thời gian điều trị 16 tuần có thể gắn liền với nguy cơ tái phát cao hơn so với phác đồ điều trị 24 tuần. Ở những bệnh nhân này, khả năng dung nạp với phác đồ điều trị phối hợp và các yếu tố tiên lượng như mức độ xơ gan cần được cân nhắc khi xem xét việc thay đổi điều trị so với phác đồ chuẩn. Việc rút ngắn thời gian điều trị ở bệnh nhân kiểu gien 2 hoặc 3 có số lượng virus cao xét nghiệm HCV RNA âm tính ở tuần 4 cần được cân nhắc thận trọng hơn vì có thể có tác động xấu đến khả năng đáp ứng virus bền vững.
Các tài liệu hiện có về bệnh nhân nhiễm virus kiểu gien 5 hoặc 6 còn hạn chế; vì vậy cần sử dụng phác đồ phối hợp với ribavirin 1.000/1.200 mg trong 48 tuần.
Pegasys được chống chỉ định trong các trường hợp sau:
- Bệnh nhân đã được biết là nhạy cảm với các interferon alfa, với các sản phẩm được chiết xuất từ E.coli, với polyethyleneglycol hoặc với bất kỳ thành phần nào của thuốc.
- Bệnh nhân bị viêm gan tự miễn.
- Bệnh nhân bị xơ gan mất bù.
- Chống chỉ định điều trị khởi đầu bằng Pegasys cho những bệnh nhân đồng nhiễm HIV-HCV có xơ gan và điểm Child-Pugh ≥ 6.
- Trẻ sơ sinh và trẻ dưới 3 tuổi.
Không được dùng liệu pháp điều trị phối hợp Pegasys/ribavirin cho phụ nữ có thai.