Cefepime và piperacillin -tazobactam đều có thể gây ra những biến cố bất lợi của thuốc. Đã có nhiều báo cáo ghi nhận tình trạng tổn thương thận cấp khi điều trị bằng phối hợp piperacillin-tazobactam và vancomycin. Chính điều này đã khiến nhiều bác sĩ không lựa chọn phối hợp này trong phác đồ kháng sinh kinh nghiệm. Một phân tích gộp đã cho thấy phối hợp piperacillin-tazobactam và vancomycin có liên quan đến việc làm tăng tỷ lệ tổn thương thập cấp 5, 6. Dựa trên dữ liệu này, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã đưa ra cảnh báo tăng nguy cơ tổn thương thận cấp của phối hợp piperacillin-tazobactam và vancomycin.
Liệu rằng piperacillin-tazobactam và vancomycin có thực sự gây tổn thương thận cấp vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Các báo cáo về tác động gây tổn thương thận cấp của phối hợp piperacillin-tazobactam và vancomycin đều dựa trên việc đo lường nồng độ creatinine trong huyết thanh. Một vài bằng chứng gần đây cho thấy nồng độ creatinine tăng có thể là do ức chế tiết creatinine từ ống thận mà không có tổn thương trên thận. Một số dấu ấn sinh học cho tổn thương thận chẳng hạn như kidney injury molecule 1 và cystatin C không tăng có ý nghĩa ở bệnh nhân được điều trị bằng phối hợp piperacillin-tazobactam và vancomycin so với bệnh nhân được đơn trị bằng piperacillin-tazobactam, vancomycin và bệnh nhân được điều trị bằng phối hợp cefepime và vancomycin.
Cefepime có liên quan đến độc tính trên thần kinh, bao gồm biến đổi trạng thái tâm thần, giật cơ và động kinh không co giật. Nguy cơ mắc độc tính trên thần kinh tăng ở bệnh nhân rối loạn chức năng thận và dùng cefepime liều cao (nồng độ đáy cao). Vì rối loạn chức năng thận là tình trạng thường gặp ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn hệ thống, do vậy nhiều nhân viên y tế cũng lo ngại khi kê đơn cefepime cho nhóm bệnh nhân này.
Qian và cộng sự đã tiến hành thử nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên có đối chứng để xác định liệu rằng piperacillin-tazobactam và cefepime có gây ảnh hưởng đến nguy cơ tổn thương thận cấp hay độc tính trên thần kinh, nhằm hỗ trợ việc kê đơn kháng sinh kinh nghiệm trong điều trị bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn hệ thống. Nghiên cứu được tiến hành trên 2511 bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn hệ thống hoặc nghi ngờ sốc nhiễm khuẩn hệ thống được điều trị tại khoa cấp cứu. Kết cục chính của nghiên cứu là mức độ tổn thương thận cấp hoặc tử vong sau 14 ngày theo dõi.
Kết quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm điều trị bằng piperacillin-tazobactam và cefepime về biến cố gây tổn thương thận cấp hay tử vong sau 14 ngày theo dõi. Bệnh nhân được điều trị bằng cefepime có số ngày sống sót và số ngày không rơi vào tình trạng mê sảng/hôn mê trong vòng 14 ngày theo dõi ít hơn có ý nghĩa so với nhóm piperacillin-tazobactam11. Sự khác biệt này chỉ có ý nghĩa ở nhóm bệnh nhân được chẩn đoán xác định sốc nhiễm khuẩn hệ thống. Đối với nhóm bệnh nhân không được chẩn đoán xác định sốc nhiễm khuẩn hệ thống, khác biệt này không có ý nghĩa
Điều quan trọng đáng lưu ý về nghiên cứu này chính là vấn đề về chế độ liều sử dụng của piperacillin-tazobactam và cefepime. Trong thử nghiệm, piperacillin-tazobactam được chỉ định với liều 3.375 g/q8h, truyền trong 4 giờ, tuy nhiên trên thực tế, piperacilin-tazobactam được chỉ định với liều cao hơn, thường 3.375 – 4.5 g/q6h, truyền trong 30 – 240 phút. Còn cefepime lại được chỉ định tiêm nhanh qua đường tĩnh mạch. Nhiều bằng chứng đã ghi nhận cách dùng thuốc này làm tăng độc tính hơn so với tiêm gián đoạn hoặc truyền kéo dài. Như vậy, chế độ liều trong nghiên cứu có xu hướng làm giảm độc tính trên thận của piperacillin-tazobactam (do liều thấp) và tăng độc tính của cefepime (do chế độ liều không phù hợp).
Lựa chọn kháng sinh kinh nghiệm để điều trị sốc nhiễm khuẩn luôn là một thách thức. Lựa chọn kháng sinh luôn phải cân nhắc dựa trên nhiều yếu tố, chẳng hạn như hiệu quả và tính an toàn. Tuy rằng nghiên cứu của Qian và cộng sự còn có một số hạn chế, tuy nhiên kết quả ban đầu của nghiên cứu cũng đã cung cấp cơ sở hỗ trợ cho việc lựa chọn kháng sinh kinh nghiệm điều trị bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn.
Nguồn biên dịch: Docquity