Nghiên cứu mới cho thấy việc bổ sung liệu pháp xạ trị trong chọn lọc (SIRT) kết hợp với hóa trị liệu tiêu chuẩn hàng đầu FOLFOX6 đối với bệnh nhân ung thư đại trực tràng chỉ di căn ở gan hoặc di căn chủ yếu ở gan, đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể về tỷ lệ sống sót trung bình cho bệnh nhân có khối u nguyên phát ở gan phải.
Phân tích sau đại học của các nghiên cứu SIRFLOX và FOXFIRE Toàn cầu, được trình bày tại Hội nghị Thế giới về Ung thư đường tiêu hóa ESMO lần thứ 19 - được tổ chức tại Barcelona, Tây Ban Nha - không cho thấy lợi thế sống sót đối với các khối u nguyên phát ở gan trái.
"Phát hiện của chúng tôi đòi hỏi phải xác nhận thêm và tuân theo điều này, có thể hỗ trợ xem xét sử dụng liệu pháp xạ trị trong chọn lọc (SIRT) trước đó cho bệnh nhân ung thư đại trực tràng chỉ di căn ở gan hoặc di căn chủ yếu ở gan phải," Người dẫn chương trình, giáo sư Guy van Hazel, đến từ Đại học Tây Úc ở Perth cho biết.
"Những phát hiện này là tin tốt cho những bệnh nhân có khối u ở gan phải- thường có tiên lượng xấu hơn nhiều và ít lựa chọn điều trị hơn so với bệnh nhân có khối u bên trái", ông nói thêm.
Vị trí của khối u nguyên phát trong mCRC được đánh giá như một yếu tố tiên lượng chính và dự đoán đáp ứng với điều trị.
Ví dụ, một nghiên cứu của Fausto Petrelli, được công bố trên JAMA Oncology năm 2016, cho thấy bệnh nhân có khối u nguyên phát bên phải có đáp ứng kém với điều trị và tiên lượng xấu hơn khi so sánh với bệnh nhân có khối u nguyên phát bên trái.
SIRT, đã có mặt ở châu Âu từ năm 2003, là phương pháp xạ trị trong sử dụng kính hiển vi bằng nhựa Y-90 (đường kính từ 20 đến 60 micron) được truyền bằng ống thông đến động mạch gan. Các kính hiển vi phóng xạ beta ưu tiên tác động đến vi mạch xung quanh khối u, giảm thiểu các phản ứng toàn thân.
Các nghiên cứu SIRFLOX, FOXFIRE và FOXFIRE Toàn cầu được thiết kế để đánh giá hiệu quả và độ an toàn của SIRT cộng với hóa trị liệu dựa trên oxaliplatin đối với U gan không cắt được.
Đối với phân tích kết hợp, trong đó 554 bệnh nhân được hóa trị liệu cộng với SIRT và 549 chỉ nhận được hóa trị liệu, tỷ lệ sống trung bình là 22,6 tháng so với 23,3 tháng.
Đối với phân tích hậu định, vị trí khối u chính đã được ghi lại trong các mẫu báo trong các nghiên cứu đoàn hệ SIRFLOX và FOXFIRE Toàn cầu, với các khối u gan phải được xác định là di căn từ u đại tràng góc lách và các khối u gan bên trái có cùng khối u đại tràng nguyên phát tại vị trí góc lách, đại tràng xuống hoặc trực tràng.
Kết quả cho thấy tỷ lệ sống trung bình ở bệnh nhân mCRC với khối u bên trái là 24,6 tháng điều trị bằng hóa trị liệu cộng với SIRT, so với 26,6 tháng ở nhánh hóa trị liệu đơn thuần.
Nhưng tỷ lệ sống trung bình chung cho bệnh nhân mCRC có khối u bên phải là 22 tháng điều trị bằng hóa trị liệu cộng với SIRT so với 17,1 tháng đối với nhánh hóa trị liệu đơn thuần.
Một thử nghiệm thống kê tiêu chuẩn đánh giá về hiệu quả điều trị dựa theo vị trí khối u cho tỉ lệ sống sót cũng rất có ý nghĩa.
Phát biểu tại buổi họp báo, Tiến sĩ Harpreet Wasan - thuộc Đại học Hoàng gia chăm sóc sức khỏe NHS Trust ở Anh - cho biết: "Một giả thuyết cho rằng ung thư gan phải do di căn không chỉ xấu đi mà còn có khả năng kháng hóa trị cao hơn. nhạy cảm hơn với xạ trị, bởi cơ chế tác động hoàn toàn khác nhau".
Tiến sĩ Wasan nói thêm:Việc thiếu các kết quả tích cực cho phân tích tổng thể, có thể là do các bệnh nhân bị ung thư di căn ngoài gan. "Mặc dù SIRT có thể kiểm soát bệnh gan nhưng nó không thể kiểm soát các tổn thương di căn khác ngoài gan", ông nói.
***Chú thích: SIRT (selective internal radiation therapy): là liệu pháp xạ trị trong chọn lọc
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh