– Thận hình hạt đậu nằm phía sau ổ phúc mạc, 2 bên cột sống.
– Kích thước: dày 3cm, rộng 6cm, cao 11cm. Trọng lượng: 150gram (nam) và 135 gram (nữ).
– Rốn thận chứa mạch máu ra-vào thận và niệu quản.
– Ngoài cùng là mạc thận, bản chất là mô liên kết, gồm 2 lá (trong và ngoài). Tiếp đến là lớp mỡ quanh thận, rồi đến bao thận và cuối cùng là nhu mô thận.
– Động mạch thận: thận được cấp máu bởi động mạch thận, tách ra từ động mạch chủ bụng. Động mạch thận phải đi phía sau tĩnh mạch chủ dưới. Động mạch thận vào thận qua rốn thận, sau đó chia làm nhiều nhánh – chia các động mạch liên thùy – chia thành nhiều động mạch cung.
– Cấu tạo thận: xoang thận ở giữa – xung quanh là nhu mô thận (vỏ thận + tủy thận)
+ Xoang thận: chứa mạch máu và thần kinh thận, hệ thống đài bể thận và mô liên kết mỡ. Đài thận nhỏ nhận nước tiểu từ nhú thận, đổ ra đài thận lớn, đài thận lớn hợp thành bể thận – nối với niệu quản.
+ Vỏ thận: nằm ngay dưới bao thận, gồm cột thận (giữa các tháp thận) và các tiểu thùy vỏ từ đáy tháp thận tới bao thận.
+ Tủy thận: do các tháp thận (tháp Malpighi) tạo nên. Đáy tháp thận hướng về phía vỏ thận, đỉnh hướng về phía xoang thận, lồi vào trong xoang thận tạo nên nhú thận – nối với đài thận nhỏ.
– Thận móng ngựa (Horseshoe Kidney) là do sự kết hợp cực dưới 2 thận ngang qua đường giữa bởi dải nhu mô hoặc dải mô xơ, sự kết hợp này thường ngang mức mào chậu và phía trước các cấu trúc mạch máu. Trục của thận hướng vào trong.
– Thận móng ngựa xảy ra 1 trong 400-800 trẻ sinh ra sống. Nam giới thường gặp gấp 2 lần nữ giới. Không có nguyên nhân di truyền nào được biết, nhưng khi trẻ sinh đôi thì đều bị.
– Bệnh lý thường gặp trong thận móng ngựa là hẹp khúc nối niệu quản bàng quang, xảy ra khoảng 35% bệnh nhân. Tắc nghẽn thường do niệu quản cắm vào bể thận rất cao. Niệu quản bắt chéo ngang eo thận thường làm cho thận ứ nước.
– Tần suất của sỏi trong thận móng ngựa là 20-60%. Bệnh sỏi được cho là do thận ứ nước hoặc hẹp khúc nối gây ứ đọng nước tiểu. Hướng bất thường của những đài thận cũng góp phần tạo sỏi trong đài thận.
– Trào ngược niệu quản-bàng quang hiện diện trong 1/2 bệnh nhân. Niệu quản đôi hiện diện trong 10%. Lỗ tiểu đóng thấp và tinh hoàn ân trong 4%. Tử cung 2 sừng hay âm đạo có vách hiện diện 7%.
– Hai giả thuyết về phôi của bệnh thận móng ngựa đã được đưa ra. Một giả thuyết cho rằng bệnh thận móng ngựa được hình thành trong giai đoạn bắt đầu phát triển các cơ quan của bào thai, cực dưới của các quả thận vừa hình thành chạm vào nhau, kết hợp lại ở đường giữa. Giả thuyết này được cho là đúng ở trường hợp thận móng ngựa dính lại bởi eo mô xơ. Ngoài ra, một giả thuyết khác cho rằng bệnh thận móng ngựa là do sự di chuyển bất thường của các tế bào nhu mô thận, dẫn đến việc các tế bào này kết dính lại với nhau tạo thành eo.