✴️ Phân loại và chẩn đoán các loại đau đầu (P1)

Nội dung

Đau đầu là một trong những chứng bệnh thần kinh mà loài người sớm biết tới nhất. Bản thân đau đầu có thể là một căn bệnh, nhưng cũng có thể là triệu chứng của nhiều bệnh nội khoa cũng như bệnh thần kinh khác nhau. Nó liên quan tới công tác chẩn đoán và điều trị của hầu hết các bác sỹ. Tuy nhiên, chứng đau đầu luôn luôn ẩn chứa nguy cơ tồn tại của các bệnh lý nội sọ.

 

1. PHÂN LOẠI ĐAU ĐẦU

Phân loại quốc tế 1988 về các rối loạn đau đầu (International Classification of Headache Disorders (ICHD)).

1.1. ĐAU ĐẦU TÝP CĂNG THẲNG (TENSION TYPE)

- Đau đầu căng thẳng chu kỳ không thường xuyên (có hoặc không kèm theo tăng nhạy cảm quanh sọ).
- Đau đầu týp căng thẳng chu kỳ thường xuyên (có hoặc không kèm theo tăng nhạy cảm quanh sọ).
- Đau đầu týp căng thẳng mạn tính (có hoặc không kèm theo tăng nhạy cảm quanh sọ).
- Theo dõi đau đầu týp căng thẳng

1.2. ĐAU ĐẦU MIGRAINE (HAY CHỨNG ĐAU NỬA ĐẦU)

- Migraine không có triệu chứng thoáng báo: cơn đau đầu Migraine không có triệu chứng báo trước

- Migraine có triệu chứng thoáng báo:
+ Triệu chứng thoáng báo điển hình sau đó có đau đầu
+ Triệu chứng thoáng báo điển hình sau đó không có đau đầu
+ Đau đầu Migraine kèm theo liệt nửa người
+ Đau đầu Migraine týp nền (có kèm triệu chứng thân não)

- Các hội chứng chu kỳ tuổi thơ ấu, sau này sẽ thành Migraine (như chứng nôn chu kỳ, đau bụng Migraine, các cơn chóng mặt kịch phát lành tính).
- Migraine võng mạc (với các triệu chứng thị giác).

- Theo dõi Migraine (chẩn đoán Migraine chưa chắc chắn).

Biến chứng của Migraine:
+ Migraine mạn tính.
+ Trạng thái Migraine (cơn đau đầu Migraine dữ dội, kéo dài; các triệu chứng kèm theo như nôn, chóng mặt, rối loạn thực vật, tinh thần hoảng hốt; xảy ra nặng nề).
+ Thoáng báo dai dẳng không có nhồi máu
+ Nhồi máu Migraine
+ Co giật do Migraine

1.3. ĐAU DẦU CHUỖI VÀ ĐAU DÂY THẦN KINH V

- Đau đầu chuỗi: đau đầu chuỗi chu kỳ, hoặc mạn tính.
- Đau nửa đầu kịch phát (chu kỳ hoặc mạn tính).
- Cơn đau đầu ngắn dạng thần kinh, có sung huyết kết mạc và chảy nước mắt (SUNCT).
- Theo dõi đau đầu chuỗi và đau dây thần kinh V.

1.4. CÁC ĐAU ĐẦU NGUYÊN PHÁT KHÁC

Đau đầu kiểu dao đâm nguyên phát.
- Đau đầu nguyên phát do ho.
- Đau đầu nguyên phát do gắng sức.
- Đau đầu liên quan tình dục nguyên phát.
- Đau đầu do ngủ.
- Đau đầu nguyên phát kiểu “sét đánh”(thunderclap). 
- Đau nửa đầu liên tục.
- Đau đầu dai dẳng hàng ngày (new daily-persitent headache).

1.5. ĐAU ĐẦU DO CHẤN THƯƠNG ĐẦU VÀ HOẶC CỔ

- Đau đầu cấp sau chấn thương: do chấn thương đầu vừa và nặng, do chấn thương đầu nhẹ.
- Đau đầu mạn tính sau chấn thương: do chấn thương đầu vừa và nặng, chấn thương đầu nhẹ.
- Đau đầu cấp do chấn thương quán tính (whiplash injury).
- Đau đầu mạn tính do chấn thương quán tính (whiplash injury).
- Đau đầu do ổ máu tụ nội sọ sau chấn thương: đau đầu do ổ máu tụ ngoài màng cứng, dưới màng cứng.
- Đau đầu do chấn thương đầu và/ hoặc cổ khác.
- Đau đầu (cấp và mạn tính) sau mổ sọ.

1.6. ĐAU ĐẦU DO BỆNH MẠCH MÁU CỔ HOẶC SỌ

- Đau đầu do đột qụy thiếu máu não hoặc TIA
- Đau đầu do chảy máu nội sọ không do chấn thương: do chảy máu trong não hoặc chảy máu dưới nhện
- Đau đầu do dị dạng mạch (không vỡ): do phình mạch, do dị dạng động - tĩnh mạch, do thông động - tĩnh mạch, do u mạch hang, do đa u mạch (angiomatosis).
- Đau đầu do viêm động mạch: viêm động mạch tế bào khổng lồ, viêm động mạch trung ương thần kinh nguyên phát hoặc thứ phát.
- Đau động mạch đốt sống hoặc động mạch cảnh: do bóc tách (dissection) động mạch, sau phẫu thuật động mạch, sau phẫu thuật tạo hình động mạch cảnh (angioplasty), do can thiệp nội mạch trong sọ, sau chụp động mạch.
- Đau đầu do huyết khối tĩnh mạch não.
- Đau đầu do các bệnh mạch máu nội sọ khác: CADASIL, bệnh não ty lạp thể, toan lactic và các giai đoạn bệnh giống đột qụy, do bệnh mạch lành tính của trung ương thần kinh, do đột qụy tuyến yên.

1.7. ĐAU ĐẦU DO CÁC BỆNH NỘI SỌ KHÔNG PHẢI NGUYÊN NHÂN MẠCH MÁU

- Đau đầu do tăng áp lực dịch não tủy: do tăng áp lực nội sọ, do chuyển hóa, nhiễm độc, hormon, do não nước.
- Đau đầu do giảm áp lực dịch não tủy: sau chọc dò màng cứng, do rò dịch não tủy, do giảm áp lực dịch não tủy tự phát.
- Đau đầu do viêm vô khuẩn: do sarcoidose thần kinh, viêm màng não, viêm lympho tuyến yên.
- Đau đầu do tân sản nội sọ: tăng áp nội sọ hoặc não nước do tân sản, đau đầu trực tiếp do tân sản, do viêm màng não, do K di căn toàn thân, do tăng hoặc giảm tiết của tuyến yên hoặc dưới đồi.
- Đau đầu do tiêm vào khoang dịch não tủy.
- Đau đầu do động kinh: đau đầu dạng động kinh, đau đầu sau cơn động kinh.
- Đau đầu do dị dạng bản lề chẩm - cổ (Chiari typ) I.
- Các hội chứng đau đầu thoáng qua và thiếu hụt thần kinh kèm theo tăng lympho dịch não tủy.
- Đau đầu do các bệnh nội sọ không do mạch máu.

1.8. ĐAU ĐẦU DO HÓA CHẤT, CAI HÓA CHẤT

- Đau đầu do sử dụng hoặc phơi nhiễm hóa chất cấp tính: do các chất tạo nitric oxyd (NO), do chất ức chế phosphodiesterase, do carbonmonoxyd, do rượu, do thức ăn và gia vị, do mì chính (monosodium glutamat), do cocain, do cannabis, do histamin, do peptid liên quan tới calcitonin - gen, do tác dụng phụ của thuốc, do dùng hoặc phơi nhiễm cấp tính hóa chất khác.

- Đau đầu do lạm dụng thuốc: do lạm dụng ergotamin, tryptan, thuốc giảm đau, opioid, lạm dụng phối hợp thuốc, do lạm dụng các thuốc khác.

- Đau đầu là tác dụng phụ của dùng thuốc mạn tính: do dùng hormon ngoại lai.

- Đau đầu do cai hóa chất: do cai cafein, do cai opioid, do cai oestrogen, do ngừng sử dụng món tính các hóa chất khác.

1.9. ĐAU ĐẦU DO NHIỄM KHUẨN

- Đau đầu do nhiễm khuẩn nội sọ: do viêm màng não, viêm viêm não, áp xe não, do mủ dưới màng cứng.
- Đau đầu do nhiễm khuẩn hệ thống: do nhiễm vi khuẩn, virus hệ thống; do nhiễm khuẩn khác hệ thống.
- Đau đầu do nhiễm HIV/AIDS.
- Đau đầu mạn tính sau nhiễm khuẩn:Đau đầu món tính sau viêm màng não vi khuẩn.

1.10. ĐAU ĐẦU DO BỆNH NỘI MÔ

- Đau đầu do thiếu oxy và hoặc tăng CO2:do độ cao, đau đầu thợ lặn, do ngạt thở khi ngủ.
- Đau đầu do thẩm phân máu.
- Đau đầu do tăng huyết áp động mạch: do u tế bào ưa crôm, do cơn tăng huyết áp, do bệnh não tăng huyết áp, do tiền sản giật, do sản giật, do đáp ứng co mạch cấp với chất ngoại lai.
- Đau đầu do thiểu năng tuyến giáp.
- Đau đầu do nhịn đói.
- Đau đầu do tim.
- Đau đầu do các bệnh nội mô khác.

1.11. ĐAU ĐẦU HOẶC ĐAU MẶT DO CÁC BỆNH SỌ, CỔ, MẮT, TAI, MŨI, XOANG, RĂNG, MIỆNG, HOẶC CÁC CẤU TRÚC SỌ, MẶT KHÁC

- Đau đầu do bệnh xương sọ.
- Đau đầu do bệnh cổ: do cổ, do viêm gân sau họng (retropharyngeal tendonitis), do rối loạn trương lực sọ và cổ.
- Đau đầu do bệnh mắt: do glaucom cấp tính, do tật khúc xạ, do lác tiềm tàng hoặc loạn dưỡng, do các bệnh viêm nhãn cầu.
- Đau đầu do các bệnh tai.
- Đau đầu do viêm các xoang mũi.
- Đau đầu do các bệnh răng, hàm, các cấu trúc liên quan khác.
- Đau đầu hoặc mặt do bệnh khớp thái dương hàm.
- Đau đầu do các bệnh sọ, cổ, mắt, tai, mũi, xoang, răng, miệng hoặc các cấu trúc cổ mặtkhác.

1.12. ĐAU ĐẦU DO CÁC BỆNH TÂM THẦN

- Đau đầu do các bệnh tâm thể.
- Đau đầu do các bệnh tâm thần.

1.13. ĐAU CÁC DÂY THẦN KINH SỌ VÀ ĐAU MẶT DO CÁC NGUYÊN NHÂN TRUNG ƯƠNG

- Đau dây thần kinh tam thoa: cổ điển, triệu chứng.
- Đau dây thần kinh thiệt hầu: cổ điển, triệu chứng, dây thần kinh VII phụ, dây thần kinh hầu trên.
- Đau dây thần kinh mũi - mi (nasociliary neuralgia).
- Đau dây thần kinh trên hố.
- Đau các nhánh tận khác của dây thần kinh.
- Đau dây thần kinh chẩm.
- Hội chứng cổ lưỡi.
- Đau đầu do chèn ép từ ngoài.
- Đau đầu do kích thích lạnh: do kích thích lạnh từ ngoài, do ăn uống hoặc ngửi lạnh.
- Đau đầu dai dẳng do chèn ép, kích thích, xoắn vặn các dây thần kinh sọ hoặc các rễ cổ trên do tổn thương cấu trúc.
- Viêm dây thần kinh thị giác.
- Bệnh thần kinh vận nhãn do tiểu đường.
- Đau đầu hoặc mặt do Herpes: do Herpes cấp tính, hoặc sau Herpes.
- Hội chứng Tolosa – Hunt.
- Migraine liệt vận nhãn.
- Các nguyên nhân trung ương của đau mặt: vô cảm đau, sau đột qụy, do xơ não tủy rải rác, vô căn dai dẳng, đau bỏng buốt miệng.
+ Các đau thần kinh sọ và đau mặt nguyên nhân trung ương khác.

14. CÁC ĐAU ĐẦU, ĐAU DÂY THẦN KINH SỌ VÀ ĐAU MẶT TRUNG ƯƠNG HOẶC NGUYÊN PHÁT KHÁC

+ Đau đầu chưa xếp loại ở nơi khác.

Bảng 1: Bảng phân loại đau đầu của HIS

 

2. HỎI ĐÁP VỀ ĐAU ĐẦU VÀ ĐIỀU TRỊ

2.1. Đau đầu theo chuỗi

Cụm từ "đau đầu theo chuỗi" đề cập đến một loại đau đầu thường hay tái phát trong một khoảng thời gian. Những người bị đau đầu theo chuỗi thường trải qua từ 1 đến 3 cơn đau mỗi ngày trong suốt một khoảng thời gian có thể kéo dài từ hai tuần đến ba tháng. Các cơn đau đầu có thể biến mất hoàn toàn (đi vào "thuyên giảm") hoặc chỉ tái phát trong vài tháng hoặc vài năm. Đau đầu theo chuỗi thường đánh thức một người sau khi ngủ từ 1 đến 2 tiếng. Những cơn đau xuất hiện ban đêm có thể nặng hơn so với các cơn đau ban ngày. Những cơn đau cũng thường xuất hiện liên quan đến nhịp sinh học (hay đồng hồ sinh học). Hầu hết những người bị đau đầu theo chuỗi thường có những cơn đau xảy ra theo cùng một thời điểm mỗi năm như mùa xuân, mùa hè, mùa thu hoặc mùa đông.

Đau đầu theo chuỗi là một trong những loại đau đầu nghiêm trọng nhất. Có thể nặng hơn nhiều lần so với một cơn đau nửa đầu.

2.1.1. Ai có thể mắc chứng đau đầu theo chuỗi?

Đau đầu theo chuỗi là loại ít phổ biến nhất, cứ 1.000 người thì có 1 người mắc loại đau đầu này. Những người trước 30 tuổi thường có nguy cơ cao hơn. Loại đau đầu này phổ biến ở nữ hơn là ở nam giới, ngày càng có nhiều phụ nữ được chẩn đoán mắc loại đau đầu này. Tỷ lệ mắc giữa nam và nữ là 2-3:1.

2.1.2. Nguyên nhân nào gây ra đau đầu theo chuỗi?

Nguyên nhân sinh hóa thực sự gây ra đau đầu theo chuỗi vẫn chưa được xác định. Tuy nhiên, những cơn đau đầu thường xảy ra khi một dây thần kinh trong não (các dây thần kinh sinh ba phản xạ tự trị) bị kích hoạt. Các dây thần kinh sinh ba là các dây thần kinh chính của khuôn mặt chịu trách nhiệm về cảm giác (ví dụ như trạng thái kích thích hoặc đau đớn).

Khi bị kích hoạt, các dây thần kinh sinh ba thường gây ra các cơn đau mắt. Bên cạnh đó, các dây thần kinh sinh ba cũng kích thích một nhóm các dây thần kinh khác gây ra những triệu chứng liên quan đến đau đầu theo chuỗi như chảy nước mắt và mắt đỏ, sung huyết mũi và chảy mũ. Việc kích hoạt các dây thần kinh sinh ba thường xảy ra tại một phần sâu hơn trong não gọi là vùng dưới đồi. Vùng dưới đồi là nơi mà "đồng hồ sinh học trong cơ thể" của chúng ta điều chỉnh chu kỳ ngủ và thức trong một khoảng thời gian cố định 24 giờ. Những nghiên cứu hình ảnh gần đây đã chứng minh sự kích hoạt hoặc kích thích của vùng dưới đồi trong một cơn đau đầu theo chuỗi.

Những cơn đau đầu theo chuỗi không phải là tình trạng của các bệnh tiềm ẩn về não như khối u hoặc chứng phình động mạch.

2.1.3. Yếu tố nào gây ra đau đầu theo chuỗi?

Yếu tố phổ biến nhất gây ra đau đầu theo chuỗi là mùa và nó thường xảy ra vào mùa xuân hoặc mùa thu. Do tính chất theo mùa nên nhức đầu theo chuỗi thường nhầm lẫn với dị ứng hoặc căng thẳng trong công việc. Bản chất theo mùa của đau đầu theo chuỗi là kết quả từ sự kích thích hoặc kích hoạt của vùng dưới đồi (xem ở trên).

Đau đầu theo chuỗi cũng rất phổ biến ở những người thường xuyên hút thuốc và uống rượu. Trong khoảng thời gian mắc bệnh, người bệnh thường nhạy cảm hơn với tác động của rượu, nicotine và chỉ một lượng rượu nhỏ cũng có thể gây ra những cơn đau đầu. Trong khoảng thời gian mắc những cơn đau đầu khác, họ có thể sử sụng rượu mà không gây ra đau đầu.

2.1.4. Các triệu chứng của đau đầu theo chuỗi là gì?

Đau đầu theo chuỗi thường đạt đến đỉnh điểm trong vòng từ năm đến mười phút sau khi khởi phát. Các cơn đau thường rất giống nhau hoặc chỉ khác nhau chút ít.

Hình thức của cơn đau: Những cơn đau đầu theo chuỗi luôn xảy ra ở một phía, và trong chuỗi thời gian đau đầu, cơn đau vẫn luôn duy trì cùng một bên. Khi một chuỗi các cơn đau đầu mới bắt đầu, nó hiếm khi xảy ra ở phía đối diện.

Mức độ/cường độ của cơn đau: Những cơn đau đầu theo chuỗi thường rất dữ dội và nghiêm trọng. Những người mắc chứng đau đầu theo chuỗi thường có cảm giác như bị đốt cháy hoặc có vật gì sắc nhọn đập mạnh và liên tục. Cơn đau dữ dội đến mức hầu hết những người bị nhức đầu theo chuỗi không thể ngồi yên và thường sẽ đi đi lại lại.

Vị trí của cơn đau: Cơn đau thường nằm sau một mắt hoặc trong khu vực xung quanh mắt và thường không thay đổi bên. Nó có thể lan đến trán, thái dương, mũi, má hoặc phần lợi trên của bên bị ảnh hưởng. Da đầu cũng có thể rất nhạy cảm, và các xung trong các động mạch cũng thường cảm nhận được cơn đau.

Thời lượng của cơn đau: Những cơn đau đầu theo chuỗi chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn, thường từ 30 đến 90 phút. Tuy nhiên nó cũng có thể kéo dài từ 15 phút đến ba giờ. Cơn đau đầu sẽ biến mất và có thể tái phát sau ngày hôm đó. Thông thường, giữa các cơn đau, những người bị đau đầu theo chuỗi thường có những cơn đau đầu khác.

Tần suất của các cơn đau đầu: Hầu hết những người mắc bệnh thường có từ 1-3 cơn đau đầu mỗi ngày trong một chuỗi thời gian (là thời điểm người bị đau đầu trải qua các cơn đau hàng ngày). Chúng xảy ra rất thường xuyên, nói chung là cùng một thời điểm mỗi ngày, và thường được gọi là "đau đầu giống như đồng hồ báo thức" bởi vì chúng thường đánh thức người mắc bệnh vào cùng một thời điểm trong đêm.
80 đến 90% những người mắc chứng đau đầu theo chuỗi có những cơn đau xảy ra trong khoảng thời gian từ bảy ngày đến một năm, cách nhau bởi các cơn đau khác kéo dài 14 ngày hoặc nhiều hơn.

Khoảng 20% người mắc chứng đau đầu theo chuỗi thường có các cơn đau mạn tính, có nghĩa là trong mỗi năm có ít hơn 14 ngày mắc các loại đau đầu khác. Những cơn đau đầu theo chuỗi mạn tính thường khác hơn so với những cơn đau đầu theo chuỗi bình thường vì chúng xảy ra liên tục mà không có thời gian thuyên giảm.

Đau đầu theo chuỗi thường không kèm theo buồn nôn hoặc nôn mửa. Những người mắc chứng đau đầu theo chuỗi cũng có khả năng mắc chứng đau nửa đầu.

2.1.5. Một cơn đau đầu theo chuỗi có thể được dự đoán trước hay không?

Mặc dù cơn đau đầu theo chuỗi thường bắt đầu đột ngột nhưng cũng có một vài dấu hiệu báo hiệu cơn đau đầu đang tới. Một số dấu hiệu bao gồm:
+ Cảm giác khó chịu hoặc nóng rát nhẹ một bên.

+ Mắt bên phía đau đầu có thể trở nên sưng lên hoặc sụp xuống. Con ngươi của mắt có thể trở nên nhỏ hơn hoặc kết mạc (các tế bào màu hồng xếp thành từng hàng bên trong mí mắt) bị đỏ.

+ Chảy nước mũi. Có thể chảy nước mũi hoặc nghẹt mũi và chảy nước mắt trong cơn đau đầu, những triệu chứng này xảy ra ở cùng phía với cơn đau.

+ Ra mồ hôi quá nhiều.

+ Khuôn mặt ở bên bị ảnh hưởng thường đỏ bừng.

+ Nhạy cảm với ánh sáng.

2.1.6. Phương pháp điều trị đau đầu theo chuỗi là gì?

+ Các loại thuốc ngăn chặn. Các phương pháp điều trị thành công nhất là tiêm Imitrex (hay còn gọi là sumatriptan: một loại thuốc chứa các chất sulfonamide) và thở mặt nạ oxy trong hai mươi phút. Các lựa chọn khác bao gồm: ergotamin (một dạng tinh thể được chiết xuất từ nấm cựa gà) và thuốc xịt lidocaine (một loại thuốc gây tê tại chỗ).

Thuốc dự phòng. Bác sĩ có thể kê toa một số thuốc dự phòng để rút ngắn chuỗi thời gian đau đầu cũng như làm giảm mức độ nghiêm trọng của cơn đau. Tất cả những người mắc chứng đau đầu theo chuỗi nên uống thuốc dự phòng trừ khi chuỗi thời gian đau đầu của họ kéo dài ít hơn hai tuần. Một số loại thuốc được sử dụng trong dự phòng đau đầu theo chuỗi bao gồm: verapamil, lithium, natri divalproex, prednisone (áp dụng cho những giai đoạn ngắn), và tartrate ergotamin.

+Phẫu thuật. Đây có thể là lựa chọn cho những người đau đầu theo chuỗi mạn tính, những người mà phương pháp điều trị chuẩn đã không còn tác dụng. Hầu hết các quá trình đều liên quan đến việc ngăn chặn dây thần kinh sinh ba.

Tất cả những phương pháp điều trị này nên được sử dụng dưới sự hướng dẫn của một bác sĩ chuyên về điều trị nhức đầu theo chuỗi. Bất kỳ loại thuốc nào cũng nên tuân thủ theo hướng dẫn sử dụng và tư vấn của bác sĩ.

Xem tiếp: Phân loại và chẩn đoán các loại đau đầu (P2)

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top