Nguyên nhân gây suy thận mạn
Các nghiên cứu ở nước ta cho thấy có 5 – 10% bệnh nhi, bệnh tiếp tục tiến triển mạn tính và gây suy thận sau 10 năm bị viêm cầu thận cấp. Có 80% trẻ bị viêm cầu thận cấp xảy ra sau viêm họng hoặc viêm da do liên cầu khuẩn, số còn lại do các vi khuẩn khác. Độ tuổi thường gặp là 6-9, bệnh xảy ra quanh năm nhưng tập trung nhiều vào các tháng 9 – 12.
Nghiên cứu sinh thiết thận ở trẻ viêm cầu thận cấp sau 10 – 15 năm cho thấy có tới 70% trường hợp có tổn thương xơ cứng cầu thận từng phần hoặc hoàn toàn, trong đó 30 – 40% có biểu hiện triệu chứng lâm sàng. Riêng ở tỉnh Vĩnh Phúc trong 10 năm (1995 – 2005) có 274 bệnh nhi bị viêm cầu thận cấp vào điều trị tại bệnh viện tỉnh, trong đó có 5,4% bệnh nhi bệnh tiến triển thành mạn tính và suy thận, sau 7 – 10 năm có 1,8% bệnh nhi phải lọc máu chu kỳ (Tạ Ngọc Cầu, Hà Hoàng Kiệm).
Nếu làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe, vệ sinh thân thể, vệ sinh răng miệng, đề phòng và điều trị sớm nhiễm khuẩn họng và da thì có thể làm giảm được bệnh này, góp phần làm giảm tỉ lệ suy thận mạn ở trẻ em.
– Viêm bể thận/viêm thận kẽ đứng hàng thứ hai, trong đó tắc nghẽn đường dẫn niệu chiếm 6,2%, thường do hẹp khúc nối bể thận – niệu quản bẩm sinh. Có thể phát hiện sớm bằng siêu âm thận và phẫu thuật để sửa chữa. Bệnh thận do trào ngược nước tiểu từ bàng quang lên niệu quản mỗi lần rặn đái chiếm 6,9%. Có thể phát hiện sớm bệnh này bởi triệu chứng trẻ thấy đau tức vùng hố thắt lưng mỗi lần rặn đái.
Nếu trẻ có triệu chứng trên thì cần chụp bàng quang có bơm thuốc cản quang kết hợp rặn đái để xác định. Hình ảnh X-quang sẽ cho thấy nước tiểu trào ngược từ bàng quang lên niệu quản. Bệnh lý này là do khuyết tật ở van giữa niệu đạo và bàng quang, có thể điều trị sửa chữa khuyết tật này.
– Bệnh thận bẩm sinh gặp 16,2% số trẻ suy thận mạn, trong đó bệnh thận nang chiếm 1,9% có thể phát hiện sớm bằng siêu âm thận. Hội chứng Alport chiếm 1,5% – đây là hội chứng bệnh lý có tính chất gia đình, bệnh biểu hiện bằng suy thận và 50% bệnh nhi có kèm theo điếc. Ngoài ra có thể gặp các bệnh thận bẩm sinh khác như Cystinosis, Oxalosis.
– Các bệnh hệ thống gặp 7% số trẻ suy thận mạn, trong đó viêm thành mạch dị ứng (Henoch – Schonlein – pupura) chiếm 2,4%. Bệnh biểu hiện bằng từng đợt xuất huyết dưới da thể chấm, chủ yếu ở hai chân, đối xứng, có thể kèm theo đau sưng các khớp, có protein niệu, có thể điều trị lui bệnh bằng các thuốc corticoid. Hội chứng tan máu – urê máu chiếm 3,1% biểu hiện bằng vàng da, bilirubin máu tăng, thiếu máu, urê máu tăng.
Hậu quả do suy thận mạn
Khi đã bị suy thận mạn tính thì bệnh sẽ tiến triển dẫn đến suy thận giai đoạn cuối. Lúc này để duy trì cuộc sống của bệnh nhân phải điều trị thay thế thận bằng lọc máu hoặc ghép thận, đây là các kỹ thuật cao hết sức tốn kém.
Các phương pháp điều trị bảo tồn suy thận mạn chỉ có vai trò kéo dài thời gian ổn định chức năng thận và làm chậm tiến triển của suy thận đến giai đoạn cuối.
Vì vậy vấn đề chăm sóc sức khỏe cho trẻ em như vệ sinh thân thể, vệ sinh răng miệng, phòng và điều trị sớm các nhiễm khuẩn ở họng hoặc da và các nhiễm khuẩn khác, phát hiện sớm các bệnh thận bẩm sinh như hẹp khúc nối bể thận niệu quản, trào ngược nước tiểu bàng quang lên niệu đạo, bệnh thận nang để có biện pháp điều trị sớm, có thể làm giảm được tỉ lệ trẻ em bị suy thận mạn.
Tỉ lệ suy thận mạn ở trẻ em Mỹ là 1 – 5 trẻ/ 1 triệu dân (Fine và Gruskin 1984), trong đó hơn 50% số trẻ em suy thận mạn giai đoạn cuối nằm trong độ tuổi 11 – 16. Ở Đức, theo số liệu của APN (Arbeitrgemeinschaft Fur Padiatrische Nephrologie), tỉ lệ STM giai đoạn cuối ở trẻ em là 5 trẻ /1 triệu trẻ em.
Tỉ lệ này tăng dần theo nhóm tuổi, từ 0 – 5 tuổi: 32%, 5 – 10 tuổi: 72%, 10 – 16 tuổi: 87%. Còn theo số liệu của Hội Lọc máu và Ghép thận châu Âu (EDTA) thì tỉ lệ trẻ em suy thận mạn thay đổi từ 1 trẻ /1 triệu dân (ở Hy Lạp) đến 11 trẻ /1 triệu dân (ở Israel). Ở nước ta chưa có số liệu suy thận mạn ở trẻ em, nhưng tỉ lệ suy thận mạn giai đoạn cuối chung cho cả trẻ em và người lớn là 0,06 – 0,08% dân số (điều tra 18.064 người ở một số vùng dân cư).
Các nguyên nhân suy thận mạn ở trẻ em gồm: viêm cầu thận 31%; viêm bể thận/viêm thận kẽ 22,5%; bệnh thận bẩm sinh 16,2%; bệnh hệ thống 7,0%; bệnh mạch máu thận 1,5%; các bệnh khác 5,7%; không rõ nguyên nhân 3,7% (theo EDTA).
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh