Ung thư thận là loại ung thư rất đáng sợ vì khi được phát hiện, tỷ lệ tử vong rất cao. Và đây cũng là nỗi ám ảnh, nỗi lo của nhiều người không may mắc các bệnh lý về thận, không phân biệt được đang mắc lao thận hay ung thư thận hoặc các bệnh có u lành tính khác. Đây không phải là loại ung thư phổ biến, tuy nhiên cũng không phải là ít gặp và có xu hướng tăng trong dân số nước ta. Do đó, chúng ta cũng cần quan tâm đến nó.
Cho đến thời điểm này vẫn chưa có các dữ liệu chứng minh nguyên nhân gây nên ung thư là gì. Thay vào đó, người ta sẽ xác định dựa trên các yếu tố nguy cơ cao có khả năng gây ra bệnh ung thư.
Các yếu tố nguy cơ cao thường xảy ra trên các bệnh nhân hút thuốc lá nhiều, hay bệnh nhân thường tiếp xúc với các loại hóa chất có chứa benzyl acetate hoặc những bệnh nhân bị béo phì,…
Một số trường hợp được ghi nhận có tính di truyền, như: bệnh nhân có nhiễm sắc thể dòng trội ở trong hội chứng Von Hippel- Lindau. Ung thư biểu mô tế bào thận thường xuất hiện ở bệnh nhân có rối loạn gen VHL. Carcinoma thận dạng nhú di truyền có liên quan gen Met,…
Ung thư thận không có mối liên quan với suy thận mạn. Suy thận mạn là bệnh nội khoa mạn tính về thận nên không có khả năng dẫn đến ung thư thận. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân bị ung thư thận thì có khả năng gây ra suy thận mạn, do sự phá hủy các tế bào ung thư thận.
Tỷ lệ nam giới ung thư thận cao hơn nữ giới có lẽ do tỷ lệ hút thuốc và tiếp xúc hóa chất độc hại ở nam giới cao hơn.
Có rất nhiều loại ung thư khác nhau, thường được đánh giá qua các giai đoạn bệnh, giải phẫu bệnh lý hoặc tế bào của ung thư thận, bao gồm: 80-85% là ung thư biểu mô tế bào thận (được viết tắt là RCC). Tuy nhiên, RCC còn được chia ra nhiều thể khác nhau. 8% là ung thư tế bào chuyển tiếp (được viết tắt là TCC). Đây là dạng ung thư có thể từ tuyến niệu dụng chuyển hóa lên. 5-6% là bướu Wilms và Sarcoma ở thận. Và dạng bướu Sarcoma ở thận thường được gặp ở trẻ em.
Chiến lược điều trị ở tất cả các loại ung thư này về cơ bản tương đối giống nhau. Chỉ sau khi điều trị những bước đầu về phẫu thuật thì có thể khác nhau trong điều trị.
Những dấu hiệu nghi ngờ ung thư thận được biểu hiện bằng những hội chứng cận ung thư như: suy kiệt, sụt cân, đổ mồ hôi về đêm, thiếu máu, sốt, đau nhức cơ bắp,... có thể là những triệu chứng khởi đầu hay là hội chứng cận ung thư.
Để chẩn đoán ung thư thận, dựa trên các triệu chứng: tiểu ra máu, bệnh nhân đau vùng hông lưng, ngoài ra khi bệnh nhân sờ vùng hông lưng có thể cảm giác bập bềnh hay sờ chạm đến cục bướu.
Tuy nhiên, những triệu chứng này chỉ thể hiện trên khoảng 10% bệnh nhân. Còn 25% bệnh nhân đến khám khi bệnh đã có những dấu hiệu của hạch di căn xa như hạch di căn thượng đòn,... và các triệu chứng thể hiện ở các cơ quan do di căn tới phổi, trung thất,... Đây là những trường hợp rất đáng tiếc!
Ung thư thận là ung thư ít gặp, vì thế, để đặt vấn đề tầm soát trên diện rộng thì hiện nay chúng ta chưa triển khai. Tuy nhiên, tuổi trung bình của những bệnh nhân ung thư thận đa phần xảy ra ở độ tuổi 55-60 tuổi, thường trên 65 tuổi. Chính vì lý do đó, những người trên 65 tuổi được khuyến cáo tầm soát ung thư thận.
Siêu âm bụng là một trong những giải pháp được ưu tiên hàng đầu với chi phí thấp nhằm phát hiện ra những tổn thương để đưa ra các hướng điều trị tiếp theo. Nếu siêu âm và không phát hiện bất kỳ dấu hiệu bất thường nào, từ 6 tháng đến 1 năm nên đi tầm soát lại bằng phương pháp siêu âm ổ bụng.
Để phòng ngừa ung thư thận, chúng ta cần xét những yếu tố nguy cơ cao có thể dẫn đến ung thư, ngoại trừ một số nguyên nhân từ di truyền, không thể phòng ngừa được. Vì vậy, bệnh nhân có thể đi làm các xét nghiệm về đột biến gen để nhận biết được ung thư thận.
Ngoài ra, chúng ta có thể chủ động phòng ngừa các nguyên nhân có thể gây ra ung thư thận như hạn chế hút thuốc lá (kể cả người hút thuốc lá chủ động hay bị động), hạn chế tiếp xúc với các hóa chất thơm (như benzen, xăng dầu,...), tăng cường tập luyện thể dục, giảm lượng mỡ thừa,...
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh