Sỏi tiết niệu là bệnh thường gặp ở hệ tiết niệu và có thể dẫn đến những biến chứng nguy hiểm. Do đó cần nhận biết đúng các dấu hiệu sỏi tiết niệu để điều trị bệnh ngay từ giai đoạn sớm.
Sỏi tiết niệu là những sỏi được hình thành trong đường tiết niệu, bao gồm : sỏi thận, sỏi niệu quản, sỏi bàng quang, sỏi niệu đạo. Trong đó, sỏi thận chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 40%. Tỷ lệ mắc sỏi tiết niệu ở nam giới cao hơn ở nữ, nhất là trong độ tuổi trung niên.
Cần nhận biết dấu hiệu sỏi tiết niệu từ sớm để điều trị kịp thời
Sỏi canxi : Là loại sỏi hay gặp nhất, hình thành do nước tiểu quá bão hòa canxi. Có nhiều nguyên nhân khác nhau làm tăng canxi niệu như: cường tuyến cận giáp, gãy xương lớn và bất động lâu ngày, dùng nhiều vitamin D và corticoid;…
Sỏi oxalat : Oxalat thường kết hợp với calci để tạo thành sỏi oxalat calci. Do thức ăn có nhiều oxalat hoặc do rối loạn chuyển hóa ở gan.
Sỏi phosphat : Loại sỏi phosphat thường gặp là loại amoni magie photphat. Sỏi phosphat hình thành do nhiễm khuẩn, có kích thước lớn, cản quang, hình san hô.
Sỏi acid uric : Sỏi acid uric dễ xuất hiện khi chuyển hóa purine tăng trong cơ thể. Nguyên nhân có thể do thức ăn có chứa nhiều purin (cá khô, lòng heo, nấm,..), bệnh gút, các khối ung thư bị phân hủy khi dùng hóa trị liệu…
Sỏi cystin : Ít gặp ở nước ta. Loại sỏi này được hình thành do khiếm khuyết tái hấp thu cystine ở ống thận.
Sỏi đường tiết niệu trên bao gồm : sỏi thận, sỏi bể thận và sỏi niệu quản. Các dấu hiệu sỏi tiết niệu thường gặp là:
Cơn đau quặn thận: xuất hiện đột ngột hoặc sau khi gắng sức. Cơn đau khởi phát ở vùng hố thắt lưng một bên, đau lan ra phía trước, xuống dưới, cường độ đau thường mạnh và không có tư thế giảm đau. Cơn đau quặn thân được chia ra làm hai trường hợp: Cơn đau do sỏi gây tắc nghẽn bể thận và đài thận: đau khởi phát ở hố thắt lưng phía dưới xương sườn 12, sau đó đau lan ra phía trước hướng về rốn và hố chậu.Cơn đau do sỏi niệu quản: đau xuất phát từ hố của thắt lưng, lan dọc theo đường đi của niệu quản, xuống dưới hố chậu bộ phận sinh dục và mặt trong đùi. Không có mối liên hệ giữa số lượng hay kích thước sỏi với sự xuất hiện và mức độ của cơn đau.
Cảm giác buồn nôn, nôn, chướng bụng do liệt ruột. Có thể kèm sốt, rét run nếu có nhiễm trùng.
Khám thấy điểm sườn lưng đau. Ấn các điểm niệu quản thấy đau, có thể thấy thận lớn.
Sỏi đường tiết niệu dưới gồm sỏi bàng quang và sỏi niệu đạo với các dấu hiệu nhận biết :
Sỏi bàng quang kích thích niêm mạc bàng quang gây tiểu buốt, tiểu rắt, tiểu són.
Tiểu tắc giữa dòng.
Khi thăm khám : ấn điểm bàng quang người bệnh cảm thấy đau.
Sỏi niệu đạo thường gây bí tiểu, sờ nắn dọc theo niệu đạo có thể thấy sỏi.
Sỏi tiết niệu nếu không phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm :
Tắc nghẽn: Đây là biến chứng cấp tính nặng cần can thiệp sớm. Nếu niệu quản bị tắc nghẽn hoàn toàn, bể thận giãn to và kéo dài trên 6 tuần thì nhu mô thận có thể không hồi phục. Nước tiểu bị ứ lại sẽ gây hủy hoại cấu trúc và chức năng thận.
Suy thận cấp: Suy thận cấp có thể do sỏi gây tình trạng tắc nghẽn nặng cả hai bên niệu quản. Điều này cũng có thể xảy ra trên bệnh nhân chỉ có sỏi niệu quản một bên nhưng gây phản xạ co mạch cả hai bên dẫn đến vô niệu. Nhận biết suy thận cấp qua triệu chứng lâm sàng là vô niệu, xét nghiệm creatinin, ure, K+ máu tăng nhanh, toan máu chuyển hoá.
Suy thận mạn: Viêm thận – bể thận mạn là biến chứng nguy hiểm nhất của sỏi hệ tiết niệu. Chức năng thận bị xơ hóa dần và không có khả năng hồi phục.
Đối với sỏi có kích thước < 5mm, sỏi chưa gây biến chứng và chức năng thận còn tốt, người bệnh được chỉ định dùng thuốc giãn cơ trơn, tăng cường vận động và uống nhiều nước để đẩy sỏi ra ngoài.
Đối với trường hợp sỏi có kích thước lớn ảnh hưởng đến thận hay bệnh nhân không thể điều trị bằng các phương pháp phẫu thuật do mắc các bệnh lý nền,.. Lúc này, bệnh nhân cũng có thể được chỉ định dùng các thuốc giảm đau, thuốc giãn cơ niệu quản và thuốc làm mòn sỏi.
Khi sỏi có kích thước lớn, không thể tự đào thải qua đường tiểu, bác sĩ sẽ phải chỉ định các phương pháp can thiệp ngoại khoa để loại bỏ sỏi.
Tán sỏi ngoài cơ thể: được áp dụng với sỏi thận có kích thước dưới 15 mm, sỏi niệu quản ở vị trí 1/3 trên sát bể thận và dưới 1cm, chức năng thận tốt, lưu thông niệu quản tốt. Đây là phương pháp sử dụng sóng xung kích có tần số lớn để phá vỡ sỏi. Sỏi sẽ từ từ trôi ra ngoài theo đường tiểu. Phương pháp tán sỏi này không cần mổ nên người bệnh không đau, không khó chịu, tán xong có thể về nhà luôn.
Tán sỏi nội soi ngược dòng: áp dụng cho trường hợp sỏi niệu quản 1/3 dưới và 1/3 giữa. Bác sỹ sẽ sử dụng một ống nội soi đi ngược từ lỗ tiểu lên niệu đạo đến niệu quản để tiếp cận với vị trí của sỏi. Sau đó dùng năng lượng từ laser, sóng siêu âm hoặc điện từ để tán sỏi nhỏ rồi hút bỏ ra ngoài. Phương pháp này có ưu điểm là không có vết mổ, ít đau, hồi phục nhanh. Bệnh nhân có thể ăn nhẹ sau 3 – 6 tiếng và về nhà sau 24h nếu sức khỏe ổn định.
Tán sỏi nội soi qua da: thay thế hoàn toàn cho mổ mở, được áp dụng đối với các loại sỏi san hô, sỏi thận kích thước lớn hơn 15mm hay sỏi 1/3 trên niệu quản có kèm dị dạng đường tiết niệu. Bác sĩ sẽ tạo một đường rạch siêu nhỏ (5mm) để tạo lập đường hầm từ vùng da vào vị trí bên trong thận có chứa sỏi, sau đó đưa máy nội soi vào tiếp cận với viên sỏi và tiến hành tán vỡ, hút bỏ sỏi ra ngoài. Với phương pháp này, bệnh nhân ít đau, có thể ra viện sau 3 ngày, thời gian phục hồi nhanh, an toàn và không lo sót sỏi.
Mổ nội soi sau phúc mạc: sau khi được gây mê, ống nội soi được đưa vào vùng hông – lưng từ 3 đường hầm nhỏ, mở niệu quản và gắp sỏi ra ngoài.
Mổ mở lấy sỏi được chỉ định khi kích thước sỏi quá lớn hay được thực hiện khi điều trị bằng các phương pháp trên bị thất bại. Bệnh nhân đau nhiều, thời gian nằm viện tương đối lâu.
Trên đây là những thông tin cơ bản về dấu hiệu sỏi tiết niệu và cách điều trị bệnh hiệu quả. Mặc dù sỏi tiết niệu hoàn toàn có thể điều trị khỏi nhưng mỗi người nên có ý thức chủ động phòng tránh sỏi bằng cách duy trì chế độ ăn uống, sinh hoạt lành mạnh. Đặc biệt là khám sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm sỏi và can thiệp kịp thời, tránh để gây ra những biến chứng nặng nề.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh