Bàng quang tăng hoạt liên quan đến sự hoạt động quá mức của cơ chéo. Cơ chéo là một phần của thành bàng quang, và khi cơ chéo hoạt động quá mức, cơ sẽ co mạnh và gây rò rỉ nước tiểu.
Bàng quang tăng hoạt là dạng hay gặp nhất của tình trạng tiểu tiện không kiểm soát. Phụ nữ mắc phải tình trạng này cảm thấy rất muốn đi tiểu do tình trạng rò rỉ nước tiểu không kiểm soát được. Đàn ông cũng sẽ trải qua những triệu chứng tương tự, nhưng sự dò rỉ có thể có liên quan với phì đại tuyến tiền liệt lành tính hoặc tắc niệu đạo.
Trước khi giới thiệu mirabegron, bàng quang tăng hoạt đã được điều trị bằng cách áp dụng bài tập Kegel và phản hồi sinh học; thay đổi lối sống như giảm cân và tránh caffeine, tiêm onabotulinumtoxin A hoặc tiêm Botox vào cơ chéo; tiêm thuốc đối kháng tại thụ thể muscarinic như tolterodine (Detrol), oxybutynin (Urotrol) và solifenacin.
Thuốc đối kháng tại thụ thể muscarinic có nhiều ảnh hưởng trái ngược khiến chúng không được dung nạp ở nhiều người. Tác dụng phụ bao gồm khô miệng, táo bón, nhìn mờ và giảm nhận thức.
Mirabegron đặc hiệu hơn về mặt hoạt động, so với các thuốc đối kháng tại thụ thể muscarinic thường được sử dụng để điều trị bàng quang tăng hoạt.
Mirabegron cũng không đối lập với hệ giao cảm như thuốc đối kháng tại thụ thể muscarinic. Hơn nữa mirabegron là một chất chủ vận beta-3 có đích tác dụng là thụ thể trên cơ chéo.
Không giống những thuốc đối kháng trên thụ thể muscarinic, mirabegron không làm ảnh hưởng đến các thụ thể beta1 và 2 ở những phần khác của cơ thể. Nói cách khác, trong khi thuốc đối kháng trên thụ thể muscarinic có ghép chính xác cao và ảnh hưởng đến nhiều cơ quan hệ thống, mirabegron sẽ có tính chính xác hơn và chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến bàng quang.
Trong thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 2 và 3, mirabegron được thử nghiệm trên 10.500 người tham gia. Trong những nghiên cứu này, người tham gia cho thấy sự giảm thể tích nước tiểu được bài tiết, giảm số lần muốn đi tiểu, giảm số lượng lần đi không tự chủ và giảm số lượng đi tiểu vào ban đêm.
Mặc dù mirabegron được chứng minh là dung nạp tốt hơn thuốc đối kháng trên thụ thể muscarinic, trong suốt thử nghiệm lâm sàng, một số người vẫn xuất hiện những phản ứng phụ bao gồm:
Mặc dù tăng nhịp tim và tăng huyết áp thứ phát do sử dụng mirabegron rất hay gặp, một số chuyên gia lo lắng về ảnh hưởng lên tim của thuốc này. Cụ thể cho đến nay có một số ít nghiên cứu về việc sử dụng mirabegron ở người trên 70 tuổi. Chính vì thế một số bác sĩ không kê loại thuốc này cho bệnh nhân cao tuổi có vấn đề về tim và thận. Hơn nữa, vẫn chưa rõ ràng rằng liệu mirabegron có hiệu quả khi sử dụng cùng thuốc đôi kháng trên thụ thể muscarinic hay không.
Ngoài sự dung nạp nhiều hơn thuốc đối kháng trên thụ thể muscarinic trong thử nghiệm lâm sàng, mirabegron được chứng minh là có thể cải thiện chất lượng cuộc sống ở những người có bàng quang tăng hoạt. Nhìn chung, mirabegron được coi là một cách điều trị mới cho bàng quang tăng hoạt động đặc biệt ở những người không dung nạp thuốc đối kháng trên thụ thể muscarinic. Tuy nhiên cần nhiều nghiên cứu hơn nữa trước khi chúng ta hiểu chính xác hơn các khía cạnh của việc điều trị với mirabegron.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh