Loét do đè ép là một tổn thương ở da do thiếu máu cục bộ gắn liền với sự chèn ép lâu dài của các mô mềm nằm giữa một mặt phẳng cứng và chỗ lồi xương. (Theo National Pressure Ulcer Advisory Panel, 1989).
2.1. Yếu tố cơ học: chủ yếu.
- Sự chèn ép:
- Sự trượt: Hiện tượng chuyển động trượt của các lớp da xếp nếp, khi thân mình đặt nghiêng và trọng lượng con người có khuynh hướng làm cho cơ thể trượt về phía dưới. Độ ẩm tạo điều kiện thuận lợi cho hiện tượng này.
- Cọ xát và kéo giãn da: Gây nên mài mòn cơ học ở da. Những cọ xát và kéo giãn này gây nên những vết thương nông (mụn nước, khe nứt)
2.2. Yếu tố thần kinh: cũng là yếu tố chính.
- Mất hoặc giảm cảm giác: Không cảnh báo được cho bệnh nhân biết những tín hiệu nguy hiểm (tư thế khó chịu hoặc đau nhưng bệnh nhân không thấy được sự thay tư thế là cần thiết). Do đó việc lưu thông máu bị cản trở.
- Liệt: Bệnh nhân không thực hiện động tác phòng chống loét, hạn chế phân bố máu cho cơ ở gần vết thương.
2.3. Những yếu tố khác
- Suy dinh dưỡng, tiểu tiện không tự chủ, độ ẩm quá mức.
- Tình trạng tâm lý: Bệnh nhân chưa chịu chấp nhận sự khuyết tật của mình và không muốn tham gia vào việc phòng chống này.
- Sức đề kháng của da, tuổi tác: Khi da khô sẽ mất đàn hồi thì rất dễ dàng cho vết loét xuất hiện. Có thể nguy cơ tăng nhiều hơn đối với những người trên 70 tuổi.
3.1. Bệnh nhân nằm ngửa: Gai xương bả vai và đường mỏm gai, khuỷu tay, xương cùng và gót.
3.2. Bệnh nhân nằm nghiêng: Mỏm cùng gai, xương sườn, mào chậu, đầu gối, mắt cá, mấu chuyển lớn
3.3. Bệnh nhân nằm sấp: Xương đòn, gai chậu, đầu gối, ngón chân, cơ quan sinh dục ở nam, vú ở nữ, má, tai
3.4. Bệnh nhân ngồi: Ụ ngồi, xương bả vai, xương hông, phía sau đầu gối, mắt cá.
1.1. Hỏi bệnh: hỏi gia đình hoặc bản thân người bệnh về các dấu hiệu bất thường trên da. Các bệnh lý mạn tính kèm theo như tiểu đường, rối loạn chuyển hóa, bệnh lý mạch máu gây ảnh hưởng đến tuần hòa ngoại vi, các bệnh lý là nguyên nhân gây bất động tại giường hoặc liệt vận động.
1.2. Khám và lượng giá chức năng
- Phân loại các độ loét:
- Phương pháp đo vết loét lâm sàng: Trước khi điều trị, cần đo và ghi nhận vết thương hàng tuần. Trong thực tế có rất nhiều phương pháp đo khác nhau:
1.3. Chỉ định xét nghiệm cận lâm sàng
- Xét nghiệm cơ bản: máu, nước tiểu, cấy máu
- Cấy dịch ổ loét: phát hiện nhiễm trùng
- Chụp Xquang hoặc CT Scan phát hiện dấu hiệu viêm xương (trường hợp loét độ 3 - 4), chụp hình vết thương sâu hoặc có đường hầm.
Dựa vào lâm sàng
- Cơ học: sự chèn ép, sự trượt, cọ xát và kéo giãn da.
- Yếu tố thần kinh: Mất hoặc giảm cảm giác, liệt.
- Những yếu tố khác: Suy dinh dưỡng, tình trạng tâm lý, sức đề kháng của da, tuổi tác.
- Phát hiện và ngăn ngừa các nguyên nhân gây loét do đè ép.
- Tránh tỳ đè lên vết loét
- Chăm sóc và băng vết loét
- Chiếu tia tử ngoại, hoặc tắm nắng
- Phẫu thuật trường hợp loét trầm trọng
- Tránh sự chèn ép và cọ xát lên vết loét:
- Đánh giá nguy cơ cao hình thành vết loét, tổng trạng sức khoẻ của bệnh nhân, tình trạng vết loét.
- Chăm sóc vết loét:
- Đảm bảo chế độ dinh dưỡng: Ăn uống nhiều chất đạm
- Bổ sung đầy dủ vitamin và chất khoáng
- Chiếu tia tử ngoại vào vết loét.
- Ngoại khoa: Vá da
- Nhiễm trùng vết loét, vết loét khó lành, có mủ và mùi hôi từ vết thương.
Xử lý viêm xương và nhiễm trùng bằng thuốc kháng viêm.
- Suy dinh dưỡng và tình trạng bị khô da:
- Mô hạt tốt là phải đỏ bóng, ẩm ướt, và không dễ bị rỉ máu. Mô hạt lên quá mép vết thương, được gọi là sự dư mô hạt.
- Điều chỉnh lại kế hoạch điều trị nếu vết loét không không phát triển tốt hoặc lành trong vòng 2 – 4 tuần:
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh