Ung thư nội mạc tử cung được xếp vào một trong số các loại ung thư tử cung. Đây là loại ung thư phát triển ở lớp niêm mạc lót bên trong tử cung. Một loại ung thư khác, hiếm gặp hơn là ung thư biểu mô liên kết tử cung, khởi phát từ lớp cơ hoặc các mô khác trong tử cung.
Theo thống kê của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, có khoảng 63.000 trường hợp mới mắc ung thư tử cung được chẩn đoán năm 2018 và khoảng 11.000 phụ nữ sẽ tử vong do loại ung thư này. Ung thư tử cung là dạng ung thư phổ biến hàng thứ tư ở phụ nữ tại Mỹ, nhưng đây là loại ung thư có thể điều trị được bằng việc phẫu thuật nếu được phát hiện sớm.
Ung thư nội mạc tử cung chủ yếu phát triển ở phụ nữ sau mãn kinh. Tuổi trung bình được chẩn đoán bệnh là 60 tuổi nhưng đã có những báo cáo cho thấy các ca bệnh ung thư nội mạc tử cung được chẩn đoán ở những phụ nữ trẻ. Nguyên nhân là do tỷ lệ béo phì đang tăng cao. Các tế bào mỡ sẽ sản xuất ra hormone sinh dục nữ là estrogen và lượng estrogen thừa này có thể tích tụ trong cơ thể và làm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung.
Mối liên quan giữa ung thư nội mạc tử cung và mỡ thừa đã được chứng minh rõ ràng, nhưng những người bị ung thư nội mạc tử cung thường có nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch cao hơn là bệnh ung thư (nếu bệnh ung thư được phát hiện sớm) vì mỡ thừa gây ung thư nội mạc tử cung cũng sẽ gây bệnh tim mạch.
Bệnh tiểu đường thường đi kèm với bèo phì, nhưng cũng làm tăng nguy cơ bị ung thư nội mạc tử cung. Trên thực tế, nguy cơ cung thư nội mạc tử cung có thể tăng cao gấp 4 lần so với những người bị tiểu đường. Nguyên nhân là vì lượng hormone insulin tăng cao hơn so với bình thường, và sẽ kích thích các tế bào ung thư phát triển. Kiểm soát chặt chẽ tình trạng tiểu đường có thể sẽ giúp giảm thiểu được nguy cơ mắc bệnh. Duy trì cân nặng khoẻ mạn và thường xuyên luyện tập sẽ giúp làm giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung và cũng có tác động tích cực lên bệnh tiểu đường.
Tuân thủ theo chế độ ăn low carb có thể sẽ giúp ích. Phụ nữ bị ung thư buồng trứng hoặc ung thư nội mạc tử cung đã ăn chế độ ăn cực kỳ low carb trong 12 tuần sẽ giúp làm giảm lượng mỡ thừa trong cơ thể nhiều hơn và có lượng hormone insulin thấp hơn so với những người thực hiện chế độ ăn ít chất béo
Hội chứng Lynch là một bệnh di truyền có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư đại tràng, ung thư nội mạc tử cung và nhiều loại ung thư khác. Nếu bạn có tiền sử gia đình bị ung thư tử cung hoặc ung thư đại tràng, đặc biệt là với các thành viên trẻ tuổi trong gia đình, hãy trao đổi với bác sỹ về các bài kiểm tra hội chứng Lynch. Sàng lọc ung thư một cách cẩn thận và/hoặc phẫu thuật làm giảm nguy cơ có thể giúp làm giảm nguy cơ mắc ung thư.
Sự tích tụ estrogen trong cơ thể được coi là có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư nội mạc tử cung và việc vô sinh cũng có thể làm tăng nguy cơ này. Việc phơi nhiễm với estrogen và không có quãng thời gian suy giảm estrogen (khi mang thai) là nguyên nhân cho việc làm tăng nguy cơ này. Ngoài ra, bạn càng có nhiều chu kỳ kinh nguyệt, nguy cơ ung thư nội mạc tử cung càng cao. Điều này cũng lý giải tại sao việc sử dụng thuốc tránh thai hàng ngày có thể làm giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung.
Sử dụng estrogen (không kèm với progesterone) để làm giảm một vài triệu chứng mãn kinh có thể làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung ở những phụ nữ vẫn còn tử cung. Đó là lý do vì sao progestin được thêm vào phác đồ điều trị với những phụ nữ này. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tỷ lệ ung thư nội mạc tử cung tăng lên đáng kể trong những năm 2002-2009 sau khi có sự suy giảm trong việc sử dụng hormone thay thế dạng phối hợp.
Bất cứ tình trạng ra máu nào sau khi mãn kinh đều cần được kiểm tra. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng này, trong đó có tình trạng ung thư nội mạc tử cung. Ra máu nặng hoặc ra máu bất thường ở phụ nữ trẻ tuổi cũng cần được xem xét. Bạn có thể sẽ cần tiến hành sinh thiết nội mạc tử cung để loại trừ nguy cơ ung thư. Cũng nên nhớ rằng, ra máu âm đạo, kể cả không có máu cũng là một trong số những triệu chứng cần được theo dõi. Khoảng 10% số trường hợp bị ung thư nội mạc tử cung sẽ bị ra dịch ở âm đạo mà không ra máu.
Phụ nữ sau mãn kinh thường sẽ gặp phải nhiều triệu chứng ung thư nội mạc tử cung. Tuy nhiên, các triệu chứng khác có thể sẽ khó phát hiện hơn, ví dụ như chướng bụng hoặc đầy bụng nhanh hơn bình thường, thay đổi thói quen đại tiểu tiện, đau bụng hoặc đau vùng chậu. Hãy thông báo với bác sỹ về bất cứ triệu chứng nào mà bạn gặp phải, đặc biệt là nếu triệu chứng đó đã kéo dài hơn 2 tuần.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh