Nhổ răng khôn là một trong những điều trị phổ biến nhất trong phẫu thuật miệng. Trong số các biến chứng có thể xảy ra, đáng ngại nhất là tổn thương các nhánh của thần kinh V. Mặc dù đa số các trường hợp chỉ xảy ra nhất thời, nhưng các di chứng vĩnh viễn để lại, như giảm hay loạn cảm giác ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Các nhánh thần kinh V bị tổn thương trong nhổ răng khôn hàm dưới có thể là nhánh thần kinh (TK) lưỡi, TK xương ổ dưới, TK miệng hay TK hàm móng, trong đó tổn thương phổ biến nhất là tổn thương TK xương ổ dưới và TK lưỡi. Theo các thống kê, tổn thương TK xương ổ dưới chiếm tỉ lệ từ 0,5%- 0,8% và TK lưỡi từ 0%- 10%.
Ngoài ra, tổn thương TK V sau khi nhổ răng khôn không chỉ làm mất chức năng trong thời gian ngắn, mà còn để lại di chứng lâu dài làm ảnh hưởng nghiêm trọng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Do vậy, những vấn đề này cần phải được giải thích cho bệnh nhân và đề cập trong cam kết phẫu thuật trước khi tiến hành nhổ răng khôn dưới, bên cạnh các biến chứng khác như sưng nề, chảy máu, đau sau mổ.
Ở vùng răng khôn hàm dưới, TK lưỡi thường nằm dưới niêm mạc phủ bên trên vách xương trong. Chấn thương TK lưỡi khi phẫu thuật nhổ răng khôn dưới là do can thiệp không thích hợp tại vách xương trong hàm dưới và niêm mạc phủ. Tỉ lệ tổn thương TK lưỡi sau nhổ răng khôn rất khác nhau trong các nghiên cứu. Điều này phản ánh sự khác biệt quan trọng trong cách xử lý mô mềm và mô cứng phía trong răng khôn dưới.
Cách phòng tránh gây tổn thương TK lưỡi gồm có (1) sử dụng đường vào từ phía má, không bóc tách vạt phía lưỡi và (2) cẩn thận khi khoan xương hay cắt răng để không làm thủng vách xương trong.
Một số báo cáo cho thấy phẫu thuật viên có kinh nghiệm dường như gây tổn thương TK lưỡi nhiều hơn đáng kể khi nhổ răng khôn dưới. Ghi nhận này có thể liên quan đến nhận định sai lầm về yếu tố lựa chọn (các phẫu thuật viên có kinh nghiệm thường phẫu thuật nhổ các trường hợp răng khôn dưới nằm sâu nhất hay khó hơn) hoặc do sử dụng kỹ thuật xâm lấn hơn. Trên thực tế, tỉ lệ các tổn thương TK lưỡi trong các báo cáo này rất cao (từ 11,5% đến 36 % đối với các phẫu thuật viên nhiều kinh nghiệm).
Hơn nữa, trong những báo cáo này, cũng có đánh giá mối liên quan giữa mức độ mọc kẹt và tổn thương TK lưỡi, ở những ca mọc kẹt nhiều, thường sử dụng kỹ thuật xâm lấn hơn. Thực tế, đối với cách tiếp cận phía má để nhổ răng khôn dưới, phẫu thuật viên không có kinh nghiệm dường như chỉ làm tổn thương TK lưỡi khi bóc tách mô mềm phía lưỡi, vì tách vạt phía lưỡi là nguyên nhân liên quan nhiều nhất đến tổn thương TK lưỡi như đã thảo luận ở trên. Thực tế ngược lại, cũng có những báo cáo khác chỉ ra rằng các phẫu thuật viên đang học nội trú gây tổn thương TK lưỡi và TK xương ổ dưới với tỉ lệ cao hơn so với các phẫu thuật viên có kinh nghiệm, và thời gian phẫu thuật cũng tăng đối với phẫu thuật viên chưa có kinh nghiệm, điều này dường như có liên quan đến việc chọn lựa trường hợp phẫu thuật.
Tóm lại, nhổ răng khôn dưới là nguyên nhân của hầu hết các tổn thương TK lưỡi và TK xương ổ dưới, và có rất nhiều yếu tố nguy cơ gây dị cảm, gồm có kỹ năng phẫu thuật, tuổi bệnh nhân, các yếu tố dự báo trên phim tia X hay tương quan chân răng – thần kinh, kinh nghiệm phẫu thuật viên, giới tính, và sử dụng thuốc đặt trong ổ răng. Mặc dù có một số biện pháp có thể áp dụng làm giảm tỉ lệ tổn thương TK lưỡi và TK xương ổ dưới do nhổ răng khôn dưới, nhưng thực tế vẫn không tránh khỏi nguy cơ tổn thương TK này trong phẫu thuật nhổ răng khôn dưới.
Xem thêm: Đau dây thần kinh số V
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh