Xương chũm là gì và có vai trò gì?

Nội dung

Vị trí của Xương chũm

Xương chũm là gì? Xương chũm nằm ở đâu?

Xương chũm (Mastoid bone) là một khối xương nhỏ, lồi nằm ngay ở phía sau vành tai có thể sờ thấy được. Về mặt giải phẫu, xương chũm nằm ở vị trí dưới - sau - ngoài của xương thái dương, đồng thời tiếp giáp với nhiều bộ phận khác như não, màng não, mạch máu và các dây thần kinh quan trọng.

Cấu tạo của Xương chũm

Xương chũm là một phần nhỏ của hệ xương thái dương phía sau ống tai ngoài, bao gồm: phần dưới của xương trai và phần mềm của xương đá. 

Về hình dáng, xương chũm giống như một chũm cau có đỉnh ở dưới, nền ở trên. Tuy có cấu tạo cứng nhưng bên trong xương chũm lại mềm, xốp và có nhiều hốc khí to nhỏ khác nhau gọi là tế bào hơi (xoang chũm). Xoang chũm lớn nhất được gọi là sào bào (hang chũm), từ hang chũm sẽ có đường thông trực tiếp sang tai giữa (còn gọi là sào đạo, hoặc ống thông hang). Sào bào và sào đạo đều được lót bởi lớp niêm mạc mỏng liên tiếp với niêm mạc hòm tai. Do có sự thông hang này nên nếu bệnh nhân đã mắc bệnh về tai giữa thì khả năng bị lan truyền nhiễm khuẩn sang xương chũm rất cao, gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm.

 

Chức năng của Xương chũm

Xương chũm là một trong những cấu trúc quan trọng nhất của tai trong. Mặc dù được gọi là xương nhưng xương chũm không có cấu trúc điển hình như những xương khác trong cơ thể. Xương chũm được cấu tạo bởi những túi chứa khí giống như bọt biển, chứ không đặc và thô ráp giống hầu hết các xương. Những tế bào không khí trong xương chũm có tác dụng bảo vệ các tế bào lông nhỏ của tai, điều chỉnh áp lực vùng tai và bảo vệ xương thái dương trong quá trình chấn thương.

 

Những điều cần lưu ý

Hiện nay có ghi nhận một số dấu hiệu bất thường ở tai có liên quan đến xương chũm như:

  • Liệt dây thần kinh vận động cơ mặt, liệt mặt

  • Chóng mặt, ù tai

  • Chảy mủ tai có mùi, màu vàng hoặc xanh, thậm chí chảy máu

  • Suy giảm khả năng nghe, mất thính giác

  • Tai hoặc vùng sau tai sưng phồng, đỏ tấy. Vành tai bị đẩy ra phía trước, sau tai bị mất nếp.

  • Sốt cao đột ngột: sốt 39 - 40 độ C, kèm tình trạng thể lực suy nhược, mệt mỏi, kém ăn, mất ngủ, nhiễm trùng, nhiễm độc.

  • Tai cảm thấy đau nhẹ hoặc nặng, đau dữ dội khi nằm vào ban đêm. Đôi khi có thể đau sâu trong tai, lan đến nửa đầu và vùng thái dương, từ vùng đỉnh xuống hàm. Đặc biệt khi ấn vào vùng mỏm chũm và bờ sau xương chũm thì cơn đau tăng tiến.

Việc điều trị các chứng bệnh liên quan đến xương chũm không hề đơn giản, nếu như không được phát hiện sớm và điều trị, bệnh có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như:

  • Viêm màng não (vi khuẩn lây nhiễm vào màng bao quanh não và tủy sống)

  • Áp xe ngoài màng cứng

  • Phù gai thị (đau đầu dữ dội và sưng phía sau mắt)

  • Nhiễm khuẩn máu

Cách phòng ngừa và chữa trị các bệnh liên quan đến xương chũm tốt nhất là điều trị triệt để tất cả những nhiễm trùng tai, giữ vệ sinh tai thật cẩn thận. Đối với trẻ em thì cần phải điều trị viêm mũi họng thật tốt khi trẻ nhiễm bệnh. Đặc biệt cần đi khám và điều trị theo chỉ định của bác sĩ khi cảm thấy những dấu hiệu bất thường.

Nếu bệnh nhân có các triệu chứng của viêm tai, bác sĩ sẽ khám tai và đầu để xác định nhiễm trùng có lan tràn sang xương chũm không. Do xương chũm nằm ở tai trong và không thể quan sát rõ tình trạng viêm. Để đưa ra chẩn đoán tốt nhất, Bác sĩ có thể cần làm một số xét nghiệm như:

  • Xét nghiệm máu, đếm số lượng bạch cầu

  • Chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng vùng tai và đầu

  • Chụp X-quang vùng sọ

  • Chọc dò tủy sống cũng có thể được chỉ định trong những trường hợp cần thiết.

Trong bất kì trường hợp nào, việc can thiệp, điều trị sớm là điều nên làm để phòng ngừa những tổn thương vĩnh viễn ở vùng xương chũm. Đối với viêm xương chũm, kể cả khi đã điều trị thành công thì nhiễm trùng vẫn có thể trở lại. Nếu tình trạng nhiễm trùng không được loại bỏ hoàn toàn bằng kháng sinh thì biện pháp phẫu thuật có thể được chỉ định để cắt bỏ hoặc lấy hết bệnh tích của xương chũm. 

Sau phẫu thuật, bác sĩ sẽ theo dõi tình trạng viêm xương chũm để đảm bảo nhiễm trùng không lan truyền hoặc tái phát, gây biến chứng nguy hiểm cho người bệnh.

return to top