✴️ Vị thuốc Cây tam thất

A. Mô tả cây

  • Cây thân thảo, sống lâu năm.
  • Lá mọc vòng 3-4 lá một, cuống lá dài 3-6cm, mỗi cuống lá mang từ 3-7 lá chét hình mác dài, mép lá có răng cưa nhỏ, cuống lá chét dài 0,6-1,2cm.
  • Cụm hoa hình tán mọc ở đầu cành hoa. Có hoa đơn tính có hoa lưỡng tính cùng tồn tại. Lá đài 5, màu xanh. Cánh hoa 5, màu xanh nhạt. nhị 5, bầu hai hai ngăn.
  • Quả mọng hình thận, khi chín có màu đỏ, trong có hai hạt hình cầu

B. Phân bố thu hái và chế biến

Cây tam thất được trồng từ lâu nhưng đối với một lượng ít ở tỉnh Hà Giang (Đồng Văn) Lào Cai (Mường Khương, Bát Xát, Phà Lùng) Cao Bằng…tại các vùng núi cao 1.200-1.500m.

Cần chọn những nơi sườn núi ít gió mạnh, phải làm giàn che nắng và phải rào để bảo vệ chuột, sóc hay đến ăn củ. Đất phải được bón phân và chuẩn bị kỹ từ một năm trước, chia thành luống dọc cách nhau 1m. Tháng 10-11 chọn những hạt ở những cây đã mọc 3-4 năm. Gieo ngay vào vườn ươm. Tháng 2-3 năm sau mới mọc. Một năm sau, vào tháng 1-2 có thể đào cây con, cắt bỏ lá gốc, trồng vào ruộng chính thức. sau 3-7 năm mới bắt đầu thu hoạch. Thường cây càng lâu năm rễ củ càng to. Sau khi rửa sạch bùn đất, cắt bỏ rễ con, đem phơi nắng cho hơi héo, đem lăn, vò cho mềm, lại phơi nắng và vò hoặc lăn; làm như vậy từ 3-5 lần mới phơi khô hẳn. Có khi người ta cho vào túi gai lắc cho rễ thành đen bóng là được.

Giá trị thu mua căn cứ vào trọng lượng củ. người ta chia ra:

  • Loại 1: 105-130 củ nặng 1kg
  • Loại 2: 160-220 củ nặng 1kg
  • Loại 3: 240-260 củ nặng 1kg

Cây tam thất còn được trồng ở Trung Quốc, Vân Nam, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Vân Nam trồng nhiều nhất và tam thất Vân nam được coi là tốt nhất

C. Thành phần hoá học

  • Năm 1937-1941 hai tác giả Trung Quốc Tiệu Thừa Cổ và Chu Nhiệm Hoàng đã nghiên cứu và lấy được 2 chất từ tam thất: saponin:Arasaponin A và Arasaponin B
  • Arasaponin A (C30H52O10) là một chất bột, dễ tan trong rượu metylic, etylic và amylic hơi tan trong nước, không tan trong ete và axeton, độ chảy 195-210oC, năng suất quay cực +23o, kết hợp với axit axetic cho một chất có tinh thể với công thức C30H45O10(CH3O)7 có độ chảy 256oC. Thuỷ phân bằng axit loãng sẽ cho arasapogenin A C17H30O5, đường và hai chất có tinh thể: một chất có độ chảy 244oC, một chất có độ chảy 252oC
  • Arasaponin B (C22H38O10) cũng là một chất bột dễ tan trong nước và rượu metylic, hơi tan trong rượu etylic và rượu amylic, độ chảy 190-200oC, độ quay cực -8o. Thuỷ phân bằng axit trong dung dịch rượu sẽ cho arasapogenin B C29H32O3 có độ chảy 247oC và đường trong đó có glucoza
  • Năm 1950 Hứa Thực Phương chiết được từ tam thất ba chất saponin: Saponin A C48H50O20 tan trong rượu amylic nóng và một saponin không tan trong rượu amylic nóng. Kết hợp với axit axetic khô kiệt sẽ được một chất có tinh thể C29H50O3(CH3CO) có độ chảy 216 oC.

Thành phần hoá học

D. Tác dụng dược lý

Năm 1937, hai tác giả Triệu Thừa Cố và Chu Nhiệm Hoàng đã nhận xét thấy tính chất các saponin trong tam thất không giống các saponin thường: rất ít độc đối với cá: thả cá vàng vào dung dịch 1/1.000 hoặc 1/500 sau 24 giờ không có hiện tượng trúng độc. Tiêm vào chó đánh mê bằng ete, 1-20mg arsaponin A hoặc B không thấy có sự thay đổi rõ rệt đối với huyết áp, với tim và hô hấp. Đối với khúc ruột cô lập của thỏ và tử cung cô lập của chuột bạch không có sự thay đổi

Đoàn Thị Nhu, Vũ Thị Tâm và Nguyễn Thị Thọ (thông báo dược liệu 1977, 4, 14-20, Hà Nội) đã nghiên cứu tác dụng của tam thất trên súc vật thí nghiệm và đã đi đến một số kết luận sau đây:

  1. Rễ tam thất làm tăng khả năng hoạt động của súc vật thể hiện kéo dài thời gian bơi của lô chuột thử thuốc so với một lô đối chứng (những chuột này mang một cục chì nặng kẹp vào đuôi khi bơi để làm chóng mệt)

  2. Rễ tam thất có tác dụng làm tăng sức đề kháng của súc vật đối với yếu tố độc hại như liều độc uabain với tim, nhiệt độ môi trường xung quanh quá cao hoặc quá thấp vượt ngoài giới hạn điều hoà của cơ thể

  3. Rễ tam thất có khả năng kháng lại hiện tượng giảm lương prothrombin trong máu thỏ và giảm khả năng máu đông gây thực nghiệm với dicumarol

  4. Rễ tam thất khác với nhân sâm không có tác dụng gây tăng huyết áp

  5. Đối với tác dụng nội tiết:

    • Rễ tam thất thí nghiệm trên chuột cống cái non với liều 5g/kg trong 6 ngày đã làm tăng trọng lượng tử cung một cách có ý nghĩa so với lô đối chứng, chứng tỏ tam thất có tác dụng hướng sinh dục tên súc vật cái

    • Rễ tam thất thí nghiệm trên chuột cống đực non với liều 5g/kg uống trong 6 ngày không làm thay đổi một cách có ý nghĩa trọng lượng tinh hoàn và tuyến tiền liệt so với chuột đối chứng, chứng tỏ tam thất không có tác dụng hướng sinh dục trên súc vật đực với liều này.

    • So sánh hoạt tính gây động đực của những rễ tam thất có độ tuổi khác nhau (3 năm và 5 năm) thì rễ tam thất 3 năm chỉ gây động đực 50% số súc vật thí nghiệm với liều 10g/kg trong khi rễ tam thất 5 năm gây cùng tác dụng này với liều 5g/kg. Điều này chứng tỏ rễ tam thất 5 năm có hoạt tính gây động dục 2 lần mạnh hơn rễ tam thất 3 năm.

    • Nghiên cứu hoạt tính gây độc dục của lá và rễ phụ tam thất và căn cứ vào những liều có tác dụng gây động dục với tỷ lệ súc vật tương đương để so sánh thì thấy lá tam thất có hoạt tính yếu hơn khoảng 8-10 lần so với rễ củ tam thất 5 năm

Nhận xét những kết quả trên chúng tôi thấy rằng liều 5g/kg nghĩa là 250g cho người cân nặng 50kg trong một ngày là không có trong thực tế thường nhân dân chỉ dùng 2-6g/ ngày. Cho nên những dẫn liệu tên đây mới có giá trị tham khảo (Đỗ Tất Lợi)

E. Công dụng và liều dùng

  • Theo tài liệu cũ: tam thất vị ngọt, hơi đắng, tính ôn, vào hai kinh can và vị. có tác dụng hành ứ, cầm máu, tiêu thũng dùng chữa thổ huyết, chảy máu cam, lỵ ra máu, đẻ xong máu hôi không sạch, ung thũng, bị đòn tổn thương
  • Nhân dân coi tam thất là một vị thuốc cầm máu dùng trong các trường hợp chảy máu, bị đánh tổn thương, vì ứ huyết mà sưng đau. Ngày dùng 4-8g dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột. dùng ngoài có tác dụng cầm máu tại chỗ
  • Tại những nơi trồng tam thất người ta coi tam thất là một vị thuốc bổ không kém nhân sâm, dùng thay nhân sâm.

Chú thích:

  1. Mặc dù tam thất được trồng ở Hà Giang và Lào Cai từ lâu nhưng việc sử dụng trong nước hầu như rất hiếm. Phần lớn xuất sang Trung Quốc. Theo tài liệu cũ hàng năm ta nhập của Vân Nam Trung Quốc chừng 15-18 tấn tam thất để rồi lại xuất sang Hồng Kông.

  2. Gần đây mới bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong nước làm thuốc bổ như vị nhân sâm cho nên có tên nhân sâm tam thất hay sâm tam thất.

    • Ngoài vị tam thất chính kể trên trong nhân sâm còn dùng rễ một cây nữa với tên thổ tam thất hay tam thất. Cây này đã được xác định là Gynura segetum (Lour.) Merr. hoặc Gynura pinnatifida thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Trồng ở đồng bằng cũng được.

    • Thổ tam thất là một loại cỏ sống lâu năm, cao chừng 6-9cm, rễ và lá đều mềm, có nhiều đám đốm tím. Lá to có những thuỳ to cắt sâu, thùy hình mác, mép có răng cưa. Mùa thu ra cụm hoa hình đầu. Hoa hình ống màu vàng. Lá và rễ dùng làm thuốc cầm máu như vị tam thất. Có khi dùng chữa rắn cắn

    • Một cây thuộc họ Gừng Zingiberaceae loài Stahlianthus thorelii Gagnep. có thân rễ nhỏ cũng được bán với tên tam thất. Cần chú ý tránh nhầm lẫn, nhất là mua giá quá đắt một cây trồng rất dễ, ít giá trị

    • Còn một cây nữa là tam thất Vũ diệp (Panax bipinnafidus).

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top