✴️ Vị thuốc Dây thuốc cá

A. Mô tả cây 

Dây thuốc cá là một loại dây leo khoẻ thân dài 7-10m, lá kép gồm 9-13 lá chét, mọc so le, dài 25-35cm, lá chét lúc đầu mỏng, sau dai dày, hình mác, đầu nhọn, phía dưới tròn. Hoa nhỏ, trắng hoặc hồng. Quả loại quả đậu, dẹt, dài 4-8cm.

B. Phân bố, thu hái và chế biến 

  • Nguồn gốc và vốn mọc hoang dại tại các nước Malaixia, Ấn Độ, Inđônêxia, Việt Nam, được trồng ở các nước nói trên và một số nước tại châu Phi
  • Trồng cây thuốc cá bằng dâm cành, mẩu rễ cành dài 0,4-0,5m, trồng cách nhau 1m. sau hai năm bắt đầu thu hoạch. Phải thu hoạch hết các rễ nhỏ, vì rễ càng nhỏ lượng hoạt chất càng cao. Hoạt chất cao nhất vào các tháng thứ 23-27.
  • Cây chịu ánh sang mạnh nhưng ưa nơi mát hơn. Vì vậy ở miền Nam Việt Nam nước ta người ta hay trồng xen kẽ giữa những cây cao su, cây dừa. nhiệt độ cần thiết 27-28 độ.
  • Đất bón vôi cho năng suất rễ cao hơn. ở Malaysia sau 25 tháng mỗi ha cho hơn 3 tấn rễ, trung bình năng suất là hơn 1,3 tấn. trước đây ở miền nam việt nam thuốc cá được trồng nhiều ở Cà Mau, Bạc Liêu, Trà Vinh, Phú Quốc. Năm 1938 đã xuất cảng được 1,3 tấn rễ.
  • Trên thị trường rễ thuốc cá dài ngắn không đều, đường kính trung bình 1cm, cong queo, mặt ngoài xám nâu, đế nâu đỏ nhạt, với những đường nhỏ chạy dọc. vỏ dày dính chắc vào gỗ màu nâu đồng, bẻ rất nhiều xơ, vị hơi ngọt, nhầy, sau đó nóng và hắc. Giã ngâm vào nước, nước sẽ có màu vàng đục và mùi đặc biệt; khác với rễ cóc kèn cho dung dịch trong

C. Thành phần hoá học 

  • Rễ dây thuốc cá chứa 10-12% nước, 2-3% chất vô cơ, rất nhiều gluxit (đường, tinh bột) tannin, chất nhựa
  • Hoạt chất chính là rotenone (hay tubotoxin, derrin) được Nagai chiết ra từ 1902. Tên rotenone do từ chữ roten là tên Nhật bản của dây thuốc cá. Công thức thô C23H22O6, công thức khai triển được Butenandt xác định từ năm 1928 với 5 vòng: 2 vòng benzene (A) và (D), một vòng pyran (B) 1 vòng pyron (C) và 1 vòng furan (E), ngoài ra còn 2 nhóm metoxy. Hiện nay người ta xêp rotenone vào nhóm izoflavon (các vòng D, C và A có gạch chéo)-Rotenon là những tinh thể hình lăng Rotenon nhân isoflavon (gạch dọc) trụ, không màu, tả tuyền. hầu như không tan trong nước 1/1.000.000, hơi tan trong cồn và ete, rất tan trong axeton, benzene và clorofoc (73%). Những dung dịch rotenone trong dung môi hữu cơ khi ra ánh sang chuyển màu vàng rồi đỏ để thành chất dehydrorotenon vững bền và có độ độc vũng bền
  • Trong môi trường kiềm, dung dịch không vững bền
  • Để xác định sự có mặt của rotenone người ta dùng những phản ứng sau đây: Phản ứng Durham, Howard, Jones và Smith, 1933; đun 0,05g bột rễ duốc cá với 5ml clrofoc, lọc, phần lọc được cô khi trên kính đồng hồ, thêm 2 giọt axit sunfuric đặc sẽ xuất hiện màu vàng cam rất rõ sau ngả màu nâu và tím khi thêm 1 hạt nitrit natri, phản ứng nhạy tới 1.10 mg. Phản ứng Jones và Amith: dung dịch 0,1% trong axeton thêm axit nitric rồi nước và kiềm hoá bằng ammoniac sẽ xuất hiện màu xanh tím mạnh rồi mất
  • Hoạt chất khác gần giống rotenone deguelin 3-8% (do chiết lần đầu tiên từ cây Deguelia cùng họ Cánh bướm). tinh thể hình kim màu lục nhạt, chảy ở 170oC, đồng phân của retenon với hai vòng dihydroxybenzopyran, tephrosin, tinh thể không màu chảy ở 198oC (do chiết lần đầu tiên từ cây Tephrosia cùng họ Cánh bướm), toxicarol và sumatrol cùng có những hydroxyphenol. Toxicarol có tinh thể hình lục lăng màu vàng lục, chảy ở 219oC
  • Hàm lượng rotenone trong duốc cá thay đổi tuỳ từng loại từ 4-12%, thông thường 58%, có thứ hoang dại lên tới 13%. Nhưng độ độc không chỉ do rotenone, mà còn tỷ lệ với lược cao của ete của rễ. thường một loại rễ chứa 4-5% rotenone cho chừng 16-22% cao ete. Thứ tư độ độc của các chất như sau: rotenone 400 lần mạnh hơn deguelin, deguelin 40 lần hơn tephrosin, tephrosin gấp 10 lần toxicarol
  • Định lượng rotenone trong rễ duốc cá (phương pháp do A.F.NOR Pháp quy định). Sau khi làm những phản ứng định tính nói trên, dùng clorofoc để chiết bột rễ duốc cá, ngâm trong 24 giờ và lắc trong 4 giờ. Bốc hơi dung dịch. Cặn còn lại hoà vào dung dịch tetraclorua cacbon no rotenone đun sôi. Để nguội, phức chất rotenone-Cl4C tinh thể tách ra, lọc qua phễu lọc thuỷ tinh xốp đã cân bì, dùng tetraclorua cacbon no rotenone để rửa tinh thể, sấy ở 35oC rồi cân. Lượng rotenone trong phức chất được xác định bằng kết tinh lại trong cồn 95o đun sôi: rotenone tinh khiết sẽ kết tinh khi dung dịch để nguội
  • Ngoài phương pháp định lượng nói trên, còn có những phương pháp so màu dựa vào màu tím nhạt do tác dụng của axit sunfuric và nitrit natri cho kết quả cao hơn phương pháp trên do toàn bộ các chất tương tự rotenone cũng có màu

D. Tác dụng dược lý 

  • Từ lâu đời dây duốc cá được nhân dân vùng Đông Nam châu Á dùng duốc cá: nghiền rễ với nước với liều 1 phần triệu cá bị say và người ta bắt cá dễ dàng. Với liều cao hơn cá có thể bị chết
  • Tính chất trừ sâu của rễ duốc cá cũng được nhân dân Trung quốc và Ấn Độ biết từ lâu. Mãi đến khoảng những năm 1930 tính chất trừ sâu này mới được nghiên cứu ở Châu Âu và Châu Mỹ. độc tính của rotenone thể hiện trên động vật máu lạnh đo đường uống hay do tiếp xúc với nồng độ 10-6, deguelin 10 lần kém độc hơn, tephrosin 40 lần và toxicarol 400 lần. rotenone độc làm tê liệu trung tâm hô hấp, co sâu tiếp xúc với rotenone sẽ bị yếu đi rồi chết, không dãy dụa, trái lại vớ dung dịch pyretrin (trong cúc trừ trùng) con sâu sẽ quằn quại. tuy nhiên không phải đối với sâu nào rotenone cũng có tác dụng
  • Đối với người và động vật máu nóng các chất đó hầu như không có độc tính (qua đường tiêu hoá) nhưng nếu tiêm mạch máu có thể gây liệt và chết do ngạt
  • Trên cơ sở tác dụng dược lý, người ta còn kiểm nghiệm rễ cây duốc cá bằng phương pháp sinh vật như sau:

– Thử trên các loại cá vàng Carassius auratus (cyprin doré) Ides melanotes (Melanote), Phoxinus laevis (vairon): xác định nồng độ loãng nhất làm cho con cá mất thăng bằng hoặc bị kéo theo dòng nước chảy

– Trên nhộng hay ấu trùng sâu bọ (doryphore, chrancon…): phun những dung dịch loãng rotenone hay rễ duốc cá lên những ấu trùng đặt trong những lồng kín

– Trên ruồi: dùng lạnh làm tê liệt nhất thời ruồi nhỏ trên mỗi con dung dịch thuốc định thử (dùng ống nhỏ giọt vi quản). đếm số ruồi chết sau 24 giờ

E. Công dụng và liều dùng 

  • Đối với người và súc vật: người ta dùng rễ duốc cá làm thuốc tẩy giun, nhưng rễ duốc cá cũng ít dùng so với các loại thuốc tẩy giun khác. Còn dùng chữa ghẻ dưới dạng thuốc mỡ.
  • Ở nước ta, tại một số vùng người ta chỉ hái cây duốc cá tươi, làm thành một vòng treo trên sừng trâu những con trâu bị dòi hay có ký sinh. Dòi và ký sinh thấy mùi duốc cá tự đi.
  • Duốc cá: xem những nơi nào có cá. Lấy một ít rễ dây duốc cá (nhiều ít tuỳ theo nơi đó nhiều hay ít nước) giã nhỏ, thả bột thô rễ cây duốc cá vào nước, ít giờ sau, cá bị chất độc rotenone nên bị nghẹt thở nổi lên mặt nước. bắt cá đó thả vào nước sạch, cá sẽ sống lại.
  • Thuốc trừ sâu hay dùng nhất, dưới những dạng sau: để diệt trừ ruồi, muỗi, mối, mọt, dán, nhện, sâu hại cây trồng…tác dụng của rotenone mạnh gấp 4-10 lần nicotin. Đối với những sâu bọ có vỏ cứng và bộ máy hô hấp khó thâm nhập cần dùng với liều gấp hai, ba.
  • Trộn bột rễ duốc cá với những bột trơ như bột talc, đất sét, thạch cao…v.v cần tránh những bột có phản ứng kiềm vì chất kiềm làm cho rotenone mất tác dụng: cầu lacton có tác dụng bị phá huỷ. Tỷ lệ pha trộn cũng không nên quá 30%, có khi chỉ cần 15% bột nguyên chất là đủ.
  • Có thể dùng bột rotenone cũng trộn với những bột trơ khác như talc, đất sét…nhưng tỷ lệ rotenone tối đa chỉ cần 1%, trung bình chỉ cần 0,25-0,5%. Bột rotenone để một năm không bị giảm tác dụng. nhưng bột rễ duốc cá để lâu kém tác dụng. nhưng nếu dùng bột rễ duốc cá tươi tác dụng còn mạnh hơn dùng rotenone. Thường tác dụng tốt nhất thu được với những dung dịch nước ngâm 5% rễ duốc cá tươi.
  • Có khi người ta phối hợp rotenone hay rễ duốc cá với pyretrin vì pyretrin tác dụng mau hơn nhưng sự bảo quản của pyretrin còn chóng mất tác dụng hơn và giá thành cũng cao hơn.
  • Để tăng độ dính hay tính chất nhũ hoá thường người ta còn dùng thêm những chất dính như dầu lạc, dầu thầu dầu, anbumin, máu, casein…chú ý dùng những chất dính không gây phản ứng làm giảm tác dụng của rotenone, những chất nhũ hoá thường dùng là mật bò, xà phòng nhưng chú ý tránh dùng những chất nhũ hoá có tính chất kiềm làm giảm tác dụng của rotenone.

Một công thức dùng rễ duốc cá:

Rễ duốc cá 250g, xà phòng 250g, nước 100ml, rửa sạch rễ, giã nát ngâm vào 15 lít nước trong 24 giờ. Rửa sạch cối, chày, nước rửa dồn vào dung dịch nói trên. Sau 24 giờ vớt rễ ra và lọc. Bã ngâm vào 10 lít trong 3 giờ. Lọc lại. khi dùng cho thêm nước đã pha thêm xà phòng vào theo tỷ lệ trên cho đủ 100 lít. Dùng bơm bơm lên những nơi có sâu, hoặc côn trùng như vườn rau, vườn cây, nhà cửa..

Chú thích:

  • Ngoài cây duốc cá nói trên, tại nhiều nước còn dùng loại Derris malaccensis Prain cùng một mục đích
  • Gần đây Viện y học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh đã dùng lá cây cóc kèn Derris trifoliate Lour cùng họ làm thuốc cầm máu, làm lành vết thương. Cây này là một loại dây leo lớn, lá có 3-5 lá chét, đôi khi 7, hoa màu trắng phớt hồng, mọc thành chùm, quả dài 34cm, rộng 2-2,8cm, chứa một hạt. trong lá cóc kèn có 11% tannin, rotenone, nhiều flavon dưới dạng bột mịn màu vàng nhạt
  • Trong nhân dân còn dùng lá sắc uống chữa tiêu chảy.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top