✴️ Vị thuốc Hồ đào (óc chó)

Nội dung

Tên tiếng Việt: Hồ đào, Óc chó, Lạc tây

Tên khoa học: Juglans regia L.

Họ: Juglandaceae

Công dụng: Thuốc tiết tinh. Chữa ho, lậu, đái đường. Còn dùng chữa thận hư, ỉa chảy, tràng nhạc, lao, ghẻ lở.

A. Mô tả cây 

  • Cây óc chó hay hồ đào là một cây to, cao tới 20m, sống lâu năm. Lá kép lông chim, không có lá kèm, thường 7-9 lá chét, mép nguyên không cuống hình trứng thuôn, khi vò có một mùi hăng đặc biệt. Hoa đơn tính, cùng gốc, kèm theo lá bắc sớm rụng. Hoa đực mọc tụ thành hình đuôi sóc rủ xuống, mỗi hoa ở một kẽ lá bắc, kèm theo có 2 lá bắc con. Nhị 30-40, có chỉ nhị ngắn, đỉnh có bao phấn 2 ngăn, quay vào trong. Hoa cái mọc đơn độc, thưa, bao hoa gồm 4-6 vẩy, bầu hạ, vòi nhụy ngắn. Bầu 1 ngăn, có tiểu noãn mọc thẳng. Có 4 vách giả chia bầu thành 4 ngăn giả. Quả hạch, có vỏ mẫm, đường kính chừng 3-4cm. Nhân nguyên ở phía trên, chia thành 4 thùy ở phía dưới, nhiều rãnh nhăn nheo, trông như óc, do đó có tên quả óc chó.
  • Mùa hoa: mùa hạ, quả chín vào các tháng 9 – 10.

B. Phân bố, thu hái và chế biến 

  • Cây hồ đào hình như là một loài mới được di thực vào nước ta, thường chỉ thấy trồng ở một số tỉnh biên giới như Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Tuy nhiên số cây chưa nhiều, chỉ mới thấy chừng 1-2 nghìn cây.
  • Mọc hoang ở những nước vùng đông nam châu Âu tới tận Nhật Bản. Hiện được trồng ở những nước ôn đới châu Âu, tại Trung Quốc (nhiều nhất tại các tỉnh miền Bắc). Cây hồ đào sống lâu năm, thường từ 15 năm trở lên, cây hồ đào mới cho hiệu suất cao nhất.
  • Muốn hái lá, thường hái suốt mùa hạ, tốt nhất vào các tháng 6-7. Chọn những lá xanh, tốt, thường chỉ hái lá chét, hoặc hái toàn lá sau đó lọc lấy lá chét, phơi thành lớp mỏng cho đến khô để khỏi phải đảo luôn. Không dùng những lá rụng, hoặc lá hái vào mùa thu. Thường người ta hay dùng lá tươi làm thuốc vì hoạt chất còn nguyên vẹn, giã ép lấy nước. Lá phơi khô bảo quản cẩn thận có màu lục, mùi thơm, vị đắng, chát.
  • Nếu dùng nhân thì đợi các tháng 9-10 khi quả chín hái về, bóc lấy vỏ ngoài, phơi khô, gọi là thanh long y.
  • Hạch gồm nhân và vỏ cứng phơi khô gọi là hồ đào. Lấy quả hạch, đập lấy nhân phơi khô gọi là hồ đào nhân và phần vách gọi là phân tâm mộc.

C. Thành phần hóa học 

  • Hổ đào nhân chứa chừng 40-50% chất béo. Muốn ép dầu hồ đào, cần phơi hạt cho khô và chờ ít nhất 3-4 tháng, vì nếu ép tươi dầu sẽ đục, khó lọc trong.
  • Thành phần của dầu gồm 7%acid béo đặc (acid myristic và acid lauric), các acid béo lỏng gồm có 80% acid linolic, 13% axit linolenic và isolinolenic, 7% acid oleic. Nhưng một số tác giả khác lại cho rằng trong dầu hồ đào có 78- 83% acid linolic, 14-15% acid oleic, và 4% lino- lenic. Dầu hồ đào có tỷ trọng 0,924-0,925 ở nhiệt độ 15-18°C thì đặc lại.
  • Ngoài chất béo ra, trong nhân dân hồ đào còn có 15,5% protein, 10,4% hydrat cacbon, 1,5% (ro (magie, mangan, canxi phosphat, sắt, vitamin A, B2, C và E).
  • Thanh long y được bán trên thị trường châu Âu với tên brou de noix. Trong thanh long y có acid xitric, acid malic, juglin, hydrojuglon, acid ellagic, emunsin, peroxydase và tro.
  • Lá hồ đào chứa một ít tinh dầu, chừng 5% chất đường inozitol, một tanin pyrogalic, acid galic và acid elagic. Trong lá hồ đào còn có chất juglon và hydrojuglon, một chất hắc và đắng là juglandin, một tinh dầu, chất nhựa và pectin.
  • Juglon và hydroxy-5 naphtoquinon-1,4 hydrojuglon là chất do khử oxy của juglon mà có. Hydrojuglon ở dưới 2 dạng totome: α- hydrojuglon (triphenolic) và β-hydrojuglon (dixetonic và monophenolic). Tỷ lệ juglon giảm ở các lá già. Do đó cần hái trước khi lá già, Juglon cho với đồng axetat những tinh thể hình kim dài màu đỏ nâu.
  • Khi đun nóng các vi phẫu lá hồ đào, chất juglon thăng hoa cho tinh thể màu vàng tươi dài 300µ. Nước brôm cũng cho những tinh thể cùng kích thước.
  • Chất juglon gần như không tan trong nước, 2 chất hydro juglon cũng chỉ tan một phần trong nước, chỉ riêng chất (3-hydroxy juglon tan trong cloroform, còn chất α-hydroxyjuglon chỉ chủ yếu tan trong cồn.
  • Chất α-hydroxyjuglon ra khí trời sẽ oxy hóa để cho juglon. Trong cùng một điều kiện, chất β-hydrojuglon không bị oxy hóa. Muốn cho hydrojuglon có thể chuyển thành juglon, cần đồng phân hóa nó thành dạng α bằng cách đun sôi trong cồn clohydric.
  • Người ta có thể chế được juglon dưới dạng tinh thể màu da cam. Nó tan trong dung dịch kiềm để cho một dung dịch màu tím.

D. Công dụng và liều dùng 

  • Hồ đào được dùng trong cả đông y và tây y. Tây y cho rằng tác dụng của hồ đào là do chất tanin, chất juglon có tính chất sát trùng là do có chất phenol, chất juglon còn có tác dụng hóa sừng các tổ chức, được dùng chữa những bệnh ngoài da.
  • Theo tài liệu cổ, hồ đào nhân có vị ngọt, tính ôn, không độc, vào 2 kinh phế, thận có tác dụng bổ gan, thận, bền lưng, gối, cố thận, sáp tinh, liễm phế, chữa ho, trừ đờm, làm thuốc bổ, tu dưỡng, ăn vào béo người, nhuận da, đen tóc, lợi tiểu tiện, chữa 5 chứng trĩ.
  • Nhưng có tác giả thời cổ (Hoàng Cung Tú, đời nhà Thanh Trung Quốc) cho rằng ăn nhiều nhân hồ đào thì có thể rụng lông mi, lông mày, người nào phế có nhiệt đờm và hỏa ở mệnh môn thì không nên dùng. Phàm không phải chứng hư hàn cấm dùng.
  • Tây y dùng lá hồ đào làm thuốc làm se da, sát trùng, bổ và lọc máu. Người ta pha thành thuốc pha như pha trà: 20g trong 1 lít nước để uống trong hay sắc 50% để súc miệng, thụt âm đạo, chữa khí hư. Nếu không có lá có thể dùng vỏ quả (thanh long y). Có tác giả (Reynaud, 1932) đã cho rằng thuốc pha lá hồ đào có tác dụng hạ glucoza huyết. Bò ăn lá hồ đào sẽ mất sữa.
  • Chất juglon được dùng chữa bệnh ngoài da như chốc lở, bệnh vẩy nến, eczema, ngứa. Dùng dưới hình thức pha 0,50g juglon trong 100ml cloroform trộn với vaselin.
  • Hạt hồ đào thường dùng ép dầu ăn, khô dầu dùng cho trâu bò hay lợn ăn, nhưng nếu khô dầu để lâu thường bị khét, thịt bò lợn ăn phải sẽ có mùi khó chịu do đó khô dầu để lâu chỉ dùng để bón ruộng thôi.
  • Gỗ cây hồ đào hay được người chây Âu dùng làm báng súng và trong nghề mộc vì gỗ chắc, thớ mịn.
  • Đông y coi hồ đào bổ khí, nuôi huyết, nhuận táo, hóa đờm, ôn phế, nhuận tràng, lợi tam tiểu, ích mệnh môn, chữa hư hàn, ho suyễn (Lý Thời Trân). Thường chỉ hay dùng nhân với liều dùng 10-20g dưới dạng thuốc sắc, thuốc viên.

Đơn thuốc trong nhân dân có vị hồ đào:

  • Thanh nga hoàn, làm thuốc bổ, chữa đau lưng, mỏi gối (Hòa hán cục phương): Hồ đào nhân 30g nhân, bổ cốt chi l00g, đỗ trọng l00g. Tất cả giã nhỏ chế thành viên, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g.
  • Đơn thuốc chữa người già yếu, ho, thở, ngủ không được: Hồ đào bỏ vỏ, hạnh nhân bỏ vỏ và đầu nhọn, sinh khương mỗi vị 40g, giã nát, dùng mật viên to bằng hạt ngô. Buổi tối trước khi ngủ ngậm 1-2 viên, dùng nước gừng mà ngậm chung.
  • Chữa trẻ con chốc đầu: Hồ đào (cả vỏ) thiêu tồn tính để nguội thêm nửa phần kinh phái, trộn đều, tán nhỏ, hòa với dầu thầu dầu bôi lên chỗ chốc đầu đã rửa sạch bằng nước trầu không hay nước bạch đồng nữ.
  • Chữa khí hư: Lá hồ đào tươi, sao vàng, sắc với nước, mỗi lít nước cho 50g lá tươi. Dùng thụt vào âm hộ

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top