Tên tiếng Việt: Nghể dại, Nghể râu, Nghể trắng
Tên khoa học: Polygonum barbatum L.
Họ: Rau răm (Polygonaceae)
Công dụng: Chưa được dùng làm thuốc trong y học dân gian Việt Nam
Nghể trắng phân bố rộng rãi ở vùng nhiệt đới nóng và ẩm thuộc Nam Á và Đông Nam Á bao gồm Ấn Độ, Srilanca, Malaysia, Lào, Thái Lan. Cây cũng mọc rải rác ở Nhật Bản, Nam Trung Quốc và Australia. Ở Việt Nam, nghể trắng cũng thường gặp ở hầu hết các tỉnh từ đồng bằng đến trung du và vùng núi thấp.
Nghể trắng là loài đặc biệt ưa ẩm và ưa sáng, thường mọc thành đám trên đất lầy, ruộng trũng, bờ các ao hồ lẫn với các loại cây cỏ ưa nước khác. Nghể trắng sinh trưởng mạnh trong mùa mưa ẩm, ra hoa qua nhiều hàng năm, hạt phát tán nhờ nước, sau chìm xuống bám được vào lớp bùn nhão mới có thể nảy mầm được. Nghể trắng có khả năng tái sinh khỏe sau khi bị cắt cành.
Toàn cây, rễ và lá.
Nghể trắng có vị cay, tính ấm, có độc, có tác dụng tẩy độc, sinh cơ, trừ mủ.
Nghể trắng chưa được dùng làm thuốc trong y học dân gian Việt Nam. Trái lại, ở Ấn Độ, rễ nghể trắng có tác dụng làm săn và làm mát. Nước sắc rễ và chồi non được dùng để rửa các vết loét, dịch ép làm lên sẹo. Hạt có tác dụng tẩy, gây nôn, và được dùng trị cảm cúm, đau bụng, tiêu chảy, kiết lỵ,
Ở Ấn Độ và Malaysia, lá nghể trắng nghiền nát đắp lên vết thương nhiễm trùng do ruồi nhặng của gia súc. Ở Trung Quốc, cây được dùng chữa nhọt sưng lấy làm mưng mủ, bệnh ngoài da, lở ngứa.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh