Cinnamomum Blume là một chi lớn gồm khoảng 270 loài, hầu hết là cây gỗ; phân bố tập trung ở vùng nhiệt đới châu Á. Ở Ấn Độ có 20 loài; Trung Quốc 12 loài và Việt Nam 40 loài. Ở Việt Nam, nhiều loài mang tên quế, trong đó, có 3 loài là cây trồng, còn lại là mọc hoang dại.
Quế có nguồn gốc ở Việt Nam, cách đây khoảng hơn 2000 năm, các triều đại phong kiến đã coi “quế Giao Chỉ” (Giao Chỉ là tên nước Việt cổ) như là sản vật quý để trao đổi và triều cống (Lê Trần Đức, 1990). Nhiều vùng quế đã được hình thành từ lâu đời ở Yên Bái; Quảng Ninh; Thanh Hoá (Thường Xuân); Quảng Nam (Trà My, Phước Sơn) và Quảng Ngãi (Trà Bồng)…
Quế được trồng từ lâu ở một số tỉnh miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Cây có thể nhân giống được bằng hạt, chiết cành hoặc tách mầm.
Quế ưa đất rừng có lớp đất mặt dày, tơi xốp, nhiều mùn, thoát nước, độ pH 4 – 5, độ dốc không quá 35%, độ cao trên 400 m, nhiều ánh sáng và khuất gió. Khi trồng, đào hố 30 x 30 x 30 cm. Nếu có điều kiện nên bón lót 5 – 7 kg phân chuồng, phân xanh ủ mục. Quế thường được trồng xen với mía, sắn hoặc chè vối khoảng cách 2 x 5 m hoặc tùy theo yêu cầu của cây trồng xen.
Hiện nay, phương pháp nhân giống bằng hạt qua vườn ươm là chủ yếu.
Trước khi gieo, hạt cần được xử lý trong nước 40 – 45°C trong 6 giờ, loại bỏ hạt nổi, rửa sạch, để ráo nước, ủ trong cát ẩm cho nứt nanh rồi đem gieo vào bầu.
Bầu cao 12 – 13 cm, đường kính 6-7 cm, thành phần giá thể gồm 85 – 89% đất, 10 -14% phân chuồng mục và 1% supe lân. Bầu được xếp thành luống, trên làm giàn che với độ che phủ khoảng 50%.
Cũng có thể gieo hạt trên luống ở vườn ươm. Hạt gieo sâu 2 cm, cách nhau 20 cm, phủ một lớp đất mỏng và làm giàn che như trên.
Sau khi gieo 15 ngày, hạt nảy mầm. Khi cây được 3-5 tháng tuổi, tiến hành bón thúc bằng phân vô cơ. Có thể bón theo tỷ lệ 2:2:1 (30g amoni sulfat + 40g supe lân + 10g kali clorur) hoặc 3:3:1 (45g amoni sulfat + 60g supe lân + 10g kali clorur), hoà phân với nước tưới cho 1m2. Chú ý giữ ẩm và làm cỏ thường xuyên.
Cây đã cao 25 – 30 cm, có thể dỡ dần giàn che. Cây quế con nuôi trong vườn ươm 1 năm, được bưng đi trồng vào mùa xuân năm sau.
Trường hợp cây con không gieo trong bầu mà gieo ờ luống, nếu không bứng được cả đất, có thể nhổ cây lên, cắt bớt rễ cọc, nhúng vào dung dịch phân bón một đêm, rồi đem trồng cũng đạt tỷ lệ sống cao (90%).
Cây quế nhân giống bằng phương pháp vô tính sau 6-7 năm cho thu hoạch, nhưng trồng bằng hạt phải sau 20 năm.
Trong quá trình nuôi dưỡng, cần tỉa thưa 2 lần. Đối với cây trồng từ hạt, tỉa thưa lần thứ nhất vào tuổi 8-10, lần thứ hai vào tuổi 15.
Trung bình mỗi hecta cho 5 tấn quế vỏ và 7 tấn quế chi.
Vỏ thân, vỏ cành non được phơi hoặc sấy khô (Quế chi). Vỏ thân được phơi khô trong bóng râm (Quế nhục). Tinh dầu từ cành hoặc lá.
Tinh dầu quế chứa cinnamaldehyd là thành phần chủ yếu có tác dụng diệt khuẩn in vitro đối với một số vi khuẩn ở độ pha loãng cao.
Ở chó và chuột lang gây mê, cinnamaldehyd có tác dụng hạ áp, có thể chủ yếu do giãn mạch ngoại biên. Sự giãn mạch này vẫn tồn tại ở chó sau khi huyết áp đã phục hồi. Trên hồi tràng chuột lang cô lập, có tác dụng chống co thắt cơ trơn gây bởi acetylcholin và histamin, và cũng có tác dụng trực tiếp trên cơ trơn và gây giãn kiểu papaverin.
Trên tim chuột lang cô lập, cinnamaldehyd làm tăng lực co cơ và nhịp tim, tuy vậy việc dùng nhắc lại dẫn đến giảm dần những tác dụng này và ức chế tim. Cinnamaldehyd gây giải phóng catecholamin từ tuyến thượng thận của chó, tác dụng tăng lực co cơ và nhịp tim trên tim chuột lang cô lập được truyền dịch có lẽ do giải phóng catecholamin nội sinh.
Cao nước quế cho chuột cống trắng bị viêm thận uống có tác dụng dự phòng sự tăng nồng độ protein trong nước tiểu, nhưng không ảnh hưởng trên sự phục hồi của thiếu máu gây bởi mất máu cấp tính, và trên số lượng bạch cầu và tế bào lympho.
Tinh dầu quế và cao quế còn có tác dụng chống chứng huyết khối, chống viêm, chống dị ứng, làm tăng lượng protein toàn phần và gamma – globulin trong máu và làm giảm tỷ lệ vỡ dưỡng bào do nhỏ dung dich noc rắn mang bạnh lên mạc treo ruột hoặc do tiêm tĩnh mạch nọc rắn cho chuột lang. Cinnamaldehyd với nồng độ 4,8 ug/ml ức chế sự phát triển của tế bào bệnh bạch cầu L1210 trong nuôi cấy 50%. Tác dụng ức chế này được quy cho nhóm aldehyd của cinnamaldehyd. Chất này ức chế sự phát triển của khối u VV2K-11 gây bởi SV40 ở chuột nhắt trắng và cũng được thử nghiệm về hoạt tính chống đột biến đối vối các chất hóa học gây đột biến hoặc chiếu tia tử ngoại. Liều chết LD50 của cinnamaldehyd trên chuột nhắt trắng bằng đường tiêm tĩnh mạch là 132 mg/kg; tiêm phúc mạc : 610 mg/kg; đường uống : 2.225 mg/kg. Nồng độ tinh dầu quế tiêu diệt 100% trong thử nghiệm in vitro trên 2 chủng Trichomonas vaginalis nuôi cấy trong môi trường là 50 ng/ml.
Đã điều trị 58 trường hợp viêm khớp dạng thấp bằng bài thuốc trong có quế chi và một số dược liệu khác. Kết quả điều trị cho thấy thuốc có tác dụng làm ổn định giảm viêm, tác dụng chậm nhưng bền vững. Kết quả tốt nhất trong trường hợp chức năng khớp còn tổn thương ít. Một chế phẩm thuốc cổ truyền Nhật Bản có quế và 7 dược liệu khác được coi là có tác dụng chống xơ cứng động mạch, đã được trộn với cholesterol và cho động vật uống. Thuốc đã có tác dụng ngăn chặn sự tăng cholesterol toàn phần, phospholipid và colagen trong máu và phòng ngừa sự phát triển xơ vữa động mạch do tăng lipid máu ở động vật thí nghiệm.
Một thuốc cổ truyền Nhật Bản khác gồm 10 dược liệu trong đó có quế, có nhiều hoạt tính kích thích miễn dịch. Cao chiết với nước nóng của vỏ quế có tác dụng hoạt hóa bổ thể mạnh. Quế bì có trong thành phần một bài thuốc cổ truyền Trung Quốc được đùng để điều trị các bệnh viêm mạn tính và các bệnh tự miễn dịch. Trên thực nghiệm, bài thuốc này tăng cường tính kích thích miễn dịch của một số hóa dược kích thích miễn dịch như phorbol myristat acetat phytohemagglutinin.
Một bài thuốc bổ dương Trung Quốc gồm quế và phụ tử có tác dụng làm tăng lượng adenosin cyclic monophosphoric acid (có vai trò trong điều hòa sự vận chuyển điện giải và nước trong cơ thể) trong huyết tương chuột đã gây thiểu năng thực nghiệm tuyến giáp hoặc vỏ thượng thận. Một bài thuốc cổ truyền Trung Quốc khác được dùng chữa bệnh phụ khoa trong đó có quế và một số dược liệu khác, đã có tác dụng đối kháng với Iuteotrophin và kháng oestrogen yếu trong thực nghiệm trên động vật.
Quế có vị ngọt, cay, mùi thơm, tính rất nóng, có tác dụng bổ hỏa, hồi dương, ấm thận tỳ, thông huyết mạch, trừ hàn tích.
Quế được dùng làm thuốc cấp cứu bệnh do hàn như chân tay lạnh, mạch chậm nhỏ, hôn mê, đau bụng trúng thực, phong tê bại, chữa tiêu hóa kém, tả lỵ, thũng do tiểu tiện bất lợi, kinh bế, rắn cắn, ung thư. Ngày dùng 1- 4g dưới dạng thuốc hãm, hoàn tán hoặc mài vối nước mà uống. Kiêng kỵ : Những người âm hư, dương thịnh và phụ nữ thai nghén không nên dùng.
Theo tài liệu nước ngoài, vỏ quế bì được dùng trong y học Trung Quốc để chữa những chứng bệnh sau :
Vỏ cành quế trị:
Quế rành trị:
Quế Thanh chủ trị:
Ở Ấn Độ, quế được dùng như sau :
Ở Nepal, quế được dùng với tác dụng long đờm trong một bài thuốc gồm 6 dược liệu để chữa viêm phế quản, khó thở. Ở Indonesia, người ta dùng quế rành cho thêm vào các thuốc uống để chữa ho có kèm theo nôn, bệnh phong, viêm nhiễm đường hô hấp, lao, nhức đầu, đau vùng thượng vị.
1. Chữa cảm mạo (Quế chi thang): Quế chi 8g, cam thảo 6g, thược dược 6g, sinh khương 6g, táo đen 4 quả, nước 600 ml, sắc còn 200 ml. Chia 3 lần uống nóng trong ngày.
2. Chữa đau bụng: Bột vỏ cành quế 4g, ngâm rượu uống.
3. Chữa tiêu chảy: Vỏ thân quế 4g – 8g, gạo nếp rang vàng 10g, hạt cau già 4g, gừng nướng 2 lát. sắc uống.
4. Chữa sai khớp, bong gân, chấn thương: Cao dán gồm hỗn hợp tinh dầu quế, hồi, menthol camphor, cao ngải cứu, cao cúc tần, được trộn đều vào hỗn hợp keo cao su.
5. Chữa thấp khớp mạn tính thể hàn (Trường hợp bênh đang tiến triển, có hoặc không sưng khớp và đau nhiều):
6. Chữa viêm khớp dạng thấp đang tiến triển: Quế chi, bạch thược, thương truật, phòng phong, tri mẫu, mỗi vị 12g; gừng tươi, ma hoàng, hắc phụ chế, mỗi vị 8g; cam thảo 6g. sắc uống ngày một thang.
7. Chữa suy nhược cơ thể do bệnh đường tiêu hóa : Nhục quế 4g; đảng sâm, bạch truật, hoàng kỳ, đại táo, mỗi vị 12g; trần bì, ngũ vị tử, mỗi vị 6g; cam thảo 4g; gừng 2g. sắc uống ngày một thang.
8. Chữa dương hư, khí lực suy nhược, di tinh, liệt dương, thai nghén khó khăn, sợ lạnh : Nhục quế 12g; thục địa 24 – 32g; sơn thù, hoài sơn, bạch linh, mỗi vị 16g; mẫu đơn, trạch tả, môi vị 8g. Tán bột làm viên, mỗi ngày uống 30 – 40g, hay sắc uống.
9. Chữa viêm phế quản mạn tính: Quế chi 12g, phục linh 16g, bạch truật 8g, cam thảo 4g. Sắc uống ngày một thang.
10. Chữa hen phế quản khi hết cơn hen :
11. Chữa viêm khớp cấp: Quế chi 8g; thạch cao, ngạnh mễ, mỗi vị 20g; tri mẫu hoàng bá, tang chi, mỗi vị 12g; thương truật 8g. Sắc uống ngày một thang.
12. Chữa nhồi máu cơ tim: Nhục quế 6g, đương quy, đan sâm, nhục thung dang ba kích, mỗi vị 12g; nhân sâm, phụ tử chế, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.
13. Chữa thiếu máu: Quế tâm 6g, đảng sâm (thay nhân sâm) 16g; phục linh hoàng kỳ, thục địa, bạch thược, đại táo, mỗi vị 12g đương quy, ngũ vị tử, viễn chí, mỗi vị 10g; bạch truật 8g; cam thảo, trần bì, mỗi vị 6g; gừng 2g. sắc uống ngày một thang.
14. Chữa viêm loét dạ dày tá tràng: Quế chi 8g; hoàng kỳ 16g; đại táo 12g; hương phụ, bạch thược, mỗi vị 8g; sinh khương, cam thảo, cao lương khương, mỗi vị 6g. sắc uống ngày một thang.
15. Chữa viêm cầu thận cấp tính: Quế chi 8g; bạch truật, phục linh, trạch tả, mỗi vị 12g; trư linh 8g. sắc uống ngày một thang.
16. Chữa kinh nguyệt không đều, chậm kinh: Nhục quế 4g; bạch truật, đảng sâm, bạch thược, hoàng kỳ, mỗi vị 12g; phục linh, thục địa, xuyên khung, đương quy, mỗi vị 8g; cam thảo 4g. sắc uống ngày một thang.
17. Chữa bế kinh, chậm kinh đau bụng: Quế chi 12g; ích mẫu, củ gấu, mỗi vị 20g; ngải cứu 16g; gừng sao cháy 12g. sắc uống ngày một thang.
18. Chữa bế kinh, vô kinh: Quế chi 8g; ngưu tất, đảng sâm, mỗi vị 12g; đương quy, xuyên khung, bạch thược, nga truật, đan bì, mỗi vị 8g; cam thảo 4g. sắc uống ngày một thang.
19. Chữa nôn mửa khi có thai: Quế chi 8g, bạch thược 12g, đại táo 8g; cam thảo, sinh khương, mỗi vị 6g. sắc uống.
20. Chữa viêm mũi dị ứng: Quế chi 8g; hoàng kỳ 16g; bạch thược 12g; bạch truật 8g; phòng phong, đại táo, mỗi vị 6g, gừng 2g. Nếu viêm cấp tính chảy nước mũi nhiều, thêm ma hoàng 4g, tế tân 6g. Nếu mệt mỏi, ăn kém, đoạn hơi, thêm đảng sâm 16g, kha tử 6g. 27. Kẹo ngậm chống viêm họng mũi cho công nhân ăn : Kẹo có hỗn hợp các tinh dầu : bạc hà, hương nhu, gừng, quế và menthol, vitamin c, acid citric.
22. Trúng phong quyết lạnh, hôn mê: Quế tốt 12g, sắc, cho uống dần dần.
23. Thuốc ngâm rửa trị viêm tắc động mạch: Quế chi 8g; đào nhân, kê huyết đằng, tam lăng, mỗi vị 12g. Đun sôi kỹ lấy nước ấm ngâm ngày 2 lần.
24. Chữa viêm tắc động mạch: Quế chi 12g, đan sâm 20g, hoàng kỳ 20g, xuyên quy vỹ 16g, xích thược 12g, bạch chỉ 12g, nghệ 12g, nhũ hương 12g, một dược 12g, hồng hoa 12g, đào nhân 12g, tô mộc 12g. sắc uống ngày một thang.
Chữa cao huyết áp có kèm bệnh về tim: Quế 6g, đỗ trọng 12g, hoàng bá 10g, sa nhân 6g, cam thảo 6g. Thêm 800 ml nước, đun sôi trong 15-20 phút, chia 3 lần uống trong ngày.
Chữa suy tim, viêm cơ tim với các biểu hiện phù, khó thở, loạn nhịp tim: Quế 15g, gừng 15g, sinh địa 15g, gai mèo 15g, mạch môn 9g, keo da lừa 9g, táo ta 3 quả, cam thảo 6g. Sắc và chia 3 lần uống trong ngày.
Chữa bệnh cuồng loạn (hysteria), loạn thần kinh tim, mất ngủ: Quế 6g, phục linh 9g, táo ta (quả) 6g, cam thảo 4g. Đun sôi trong 800 ml nước trong 45 phút. Chia 3 lần uống trong ngày.
Chữa viêm thận: Quế chi 4g, cốc tinh thảo (hoa) 4g, táo ta (quả) 4g, bạch thược 4g, đương quy Nhật Bản 4g, cam thảo 3g, bạch mộc thông 3g. sắc và chia 3 lần uống trong ngày.
Chữa thấp khớp: Quế chi 12g, phụ tử chế 15g, bạch truật 12g, cam thảo 6g. sắc và chia 3 lần uống trong ngày.
Chữa đái tháo đường giai đoạn đầu: Quế 10g, phụ tử chế 15g, mai rùa nướng 15g, sa nhân 6g, cam thảo 6g. sắc và chia 3 lần uống trong ngày.
Chữa đái tháo đường: Quế 3g, sơn dược 15,5g, phụ tử chế 12g, phục linh 12g, sơn thù 10g, trạch tả 10g, sinh địa 10g, mẫu đơn bì 6g. sắc uống làm 3 lần trong ngày.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh