Cây sừng dê là một cây nhỏ, cao chừng 3 đến 4,5m. Toàn thân cây và lá khi bẻ có nhỏ dịch màu trắng sữa. Cành non vuông, gầy, màu nâu lục nhạt, cành già hình trụ nâu đen nhạt có khía dọc, nhiếu đóm bì khổng trắng nổi lên. Lá mọc đối, hơi giống hình thìa, trên to dưới nhỏ, đầu nhọn, dài 5-9cm, rộng 2,5-5cm, gân lá gồm 6 – 8 đôi không nổi rõ ở cả hai mặt, cuống lá dài 3 đến 8mm, gầy, trên có lòng máng. Cụm hoa hình xim ở đầu cành, mang 1-3 hoa to, cuống hoa dài 1-1,5cm gần đài có một đôi lá bắc mọc đối. Đài hoa màu xanh hay vàng xanh, tràng hoa hình phễu rộng, trên xẻ làm 5 cánh màu vàng, đặc biệt phía trên cùa cánh tràng hẹp lại thành hình sợi, bầu trung, có 2 ngăn. Trồng ở vườn Trường đại học dược khoa Hà Nội. Ra hoa vào tháng 2-3 (nhưng sau 3 năm chưa thấy có quả). Quả khô gồm 2 đại đính vào nhau, đầu đại nhỏ nhưng tù, đại dài chừng 10cm đến 15cm, vỏ dày cứng. Khi chín mở ra có nhiều hạt có cuống và chùm lông mịn dài.
Hạt cây sừng dê mọc ở Trung Quốc đã được một tác giả Trung Quốc Chu Nhiệm Hoàng nghiên cứu từ năm 1940 (Sapogenins of Chinese Drug Yang Chiaoou, Trung hoa sinh lý học tạp chí, 15: 309) đã thấy ngoài 37% chất dầu còn có chừng 1,8% một chất saponozit không có tinh thể, sau khi dùng axit để thủy phân thì thu được 3 loại sapogenin có tinh thể là strophantilin A có công thức C25H36C4), độ chảy 205-206°C, strophantilin B có công thức C39H64O4 với độ chảy 289-291°C và strophantilin C với công thức C18R26O4 độ chảy 305-307°C.
Nhưng đến năm 1953 (Trung Hoa y học tạp chí, 43:1), hai tác giả khác là Schindler và Reichstein đã chiết từ hạt cây sừng dê mọc ở Trung Quốc hai chất glucozit và đặt tên là divaricoit và caudozit.
Năm 1944, Ngô Ban (A pharmacological Study of the Saponin of Yang Chiao-ou. Chin Med. J., 63, 91-95) nghiên cứu tác dụng được lý của chất saponin trong hạt cây sừng dê Trung Quốc đã đi đến kết luận rằng chất này có tác dụng làm co bóp tim mạch, đối với huyết áp và mạch máu thì với liều không độc hầu như không thấy tác dụng, nhưng với liều mạnh, độc (2/3 liều tối thiểu gây độc) thì thấy tác dụng co mạch và huyết áp tăng cao. Định lượng sinh lý trên ếch và mèo thì thấy tác dụng bằng 2/3 tác dụng của K strophantin, một glucozit chữa tim chiết từ hạt Strophanthus kombe Olivier mọc ở châu Phi.
Năm 1959, một tác giả Trung Quốc khác Đặng Sĩ Hiển (Acta pharmaceutica Sin, 8, 161-165) nghiên cứu thêm tác dụng thông tiểu và trấn tĩnh của divazit, một glucozit chiết từ hạt cây sừng dê Trung Quốc đã đi tới kết luận rằng nó có tác dụng lợi tiểu rõ rệt trên chó (thí nghiệm cấp diễn) và trên chuột (thí nghiệm trường diễn). Sau khi tiêm thuốc tù nửa giờ đến 2 giờ thì lượng nước tiểu tăng lên đến tối đa, so với những con vật không tiêm thuốc thì tăng lên gấp 4,7 lần. Đồng thời tác giả so sánh tác dụng lợi tiểu của Kstrophantin thì thấy sau khi tiêm K-strophantin vào 1 đến 3 giờ thì lượng nước tiểu tăng lên tối đa và gấp 4,4 lần so với lượng nước tiểu của những con vật không tiêm thuốc.
Về tác dụng trấn lĩnh, tác giả đã tiêm với liều 5- 8,7mg trên 1kg thể trọng chuột thấy tác dụng hơi trấn tĩnh đồng thời tim đập chậm, với liều ll,5-20mg trên lkg thể trọng thì tác dụng trấn tĩnh rõ ràng nhưng tim cũng đập chậm rõ rệt, với liều 15,2-20mg trên 1kg thể trọng thì có hiện tượng ngộ độc.
Năm 1963, Đoàn Thị Nhu (Viện dược liệu) đã nghiên cứu tác dụng dược lý dung dịch glucozit toàn phần của hạt một loại sừng dê mọc ở Hà Tĩnh trên tim ếch tại chỗ, trên tim ếch cô lập theo phương pháp Straub, trên tim thỏ cô lập và trên huyết áp động mạch mèo và thỏ đã đi tới một số kết luận sau đây:
Dung dịch glucozit toàn phần có tác dụng lam tăng rất mạnh sức co bóp cùa tim và tăng trương lực cơ tim.
Làm chậm nhịp tim nhưng ảnh hưởng đến nhịp tim tương đối ít.
Khi tiêm tĩnh mạch tác dụng xuất hiện nhanh, không có giai đoạn chờ đợi như với digitalin.
Ít ảnh hưởng đối với huyết áp, chỉ làm tăng huyết áp rõ rệt với liều độc.
Với liều độc, gây ngừng tim ở trạng thái co thắt tâm thu.
Nói tóm lại tác giả cho rằng tác dụng dược lý của glucozit toàn phần loài Strophanthus nghiên cứu trên hệ tim mạch giống như những loài Strophanthus khác đã được nghiên cứu và công bố (rất tiếc tác giả không nói rõ loài Strophan- thus nào, vì ở Hà Tĩnh có nhiều loài Strophan- thus- xem phần chú thích).
Hạt cây sừng dê có thể dùng để chế thuốc chữa bệnh tim thay những loại thuốc tương tự chế bằng các hạt Strophanthus khác trước đây phải nhập của nước ngoài thuộc châu Phi.
Trong đông y không thấy nói tới công dụng, chỉ thấy nói rằng có nơi xưa kia dùng hạt này để chế tên thuốc độc dùng trong săn bắn.
Chú thích:
Ngoài loài Strophanthus divaricatus có hoa màu vàng kể trên, trong nước ta còn 3 loại khác có hoa màu đỏ vì tài liệu chưa rõ nên chưa xác định chắc chắn:
1. Loài Strophanthus robustus Pierre: Cây nhỏ mọc leo cành non gầy nhẵn, màu nâu đỏ nhạt có bì khổng hơi tròn, màu xám nhạt. Lá dài 5-8cm, rộng 3,5-5cm, hình thuôn dài cuống 4-6cm, có lòng máng ở mặt bên. Cụm hoa hình xim lưỡng phân, mọc ở đầu cành, ít hoa, dài 2-10cm. Hoa màu đỏ, cánh tràng 5, dài 5-7cm, phía dưới rộng 3-4mm, phía trên hẹp lại thành một thùy hình sợi, dưới mỗi cánh tràng có một đôi vẩy dài 3mm, mẫm, nguyên, đỉnh nhọn, Ống dài 9-12cm, trên loe hình phễu, duới hình trụ. Quả khô, hai đại dài 12cm, phía cuống rộng 2cm đầu tù, van xơ gỗ, dầy 4mm màu xám nhạt có rãnh dọc. Hạt nhiều, dài 21mm, rộng 2mm mặt phẳng có cán mang nhiều lông mịn trắng, dài. Mùa hoa quả vào tháng 3-4.
2. Loài Strophanthus caudatus Kurtz. Loài này hoa cũng đỏ có hai thứ là:
a/ Strophanthus caudatus Kurtz var. macrophyllus Franch. (Strophanthus pentaphyllus Griff., Echites caudata Burm., Nerium caudatum Lam., Nerium scandens Lour.). Cây này là một cây nhỏ hay dây leo cao 3-8m, cành non đen đỏ nhạt, rất nhiều bì khổng, có nhiều sẹo lá. Lá dài 8- 16cm, rộng 3,5-8cm hình trái xoan hơi thuôn, thường trên to dưới hẹp, dai, mặt trông bóng, mặt dưới mờ, gân có 8-12 đôi, mọc chéo lên, hơi nổi rõ ở mặt dưới, cuống dài 10-15mm có lòng máng ở trên. Cụm hoa là xim tận cùng, dài 5-15cm, cuống dài 1- 3cm,lá bắc dài 5-8mm, hoa đỏ, cánh tràng 6 dài 6cm phía dưới hình trứng, phía trên đột nhiên hẹp lại, phía dưới mỗi cánh tràng có 2 vẩy dài 5mm, ống hoa dài 12-15mm, dưới hình trụ dài 8mm, phía trên loe hình phễu dài 7mm. Quả đại dài 15cm, đường kính 3cm, đầu tù. Ra hoa vào các tháng 3-8. Đã phát hiện ở Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên, Hoà Bình.
b/ Strophanthus caudatus Kurtz var. giganteus Pitard (Strophanthus giganteus Pierre, Strophanthus pierrei Heim). Cũng là một loài dây leo, lá dài 12- 22cm, rộng 4-7cm, hình mác thuôn hơi dài, gân có 9-12 đôi, cuống đài 9-11mm.Cụm hoa hình xim ở đầu cành, dài 4-8cm, hoa cũng màu đỏ. Quả khô 2 đại dài 18-22cm phía cuống rộng 2,5cm, đầu tù, vỏ quả cứng đen nhạt trên có khía dọc, nhiều hạt dài 1,75cm, rộng 6mm, phía dưới tròn, trên dẹt, cán lông trắng mịn, chiếm 3,5cm, lông dài tới 5cm. Ra hoa vào các tháng 8-12, quả vào tháng 12.
3. Strophanthus balansae Franch. Cây nhỏ, có nhiều cành, cành không có bì khổng. Lá dài 16cm, rộng 5-7cm. Cụm hoa chưa biết. Quả khô, dài 12cm, rộng 2cm, đầu tù, hơi nhọn, hạt dài 10-12mm, rộng 5-6mm dẹt, mép dầy lên, phía dưới tròn, một mặt có rãnh, cán lông ngắn, lông dài tới 5cm. Theo tài liệu cũ loài này có thấy mọc ở Thủ Pháp (Sơn Tây-Hà Tây).
Tóm lại, loài Strophanthus hoa vàng tương đối dễ nhận, tên đã xác định chắc chắn, đã được nghiên cứu ở nước ngoài. Nhưng các loài Strophanthus hoa đỏ vì nhiều loài mà tài liệu cũ mô tả chưa rõ ràng, cho nên rất khó xác định.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh