✴️ Vị thuốc từ Cóc

Nội dung

Tên tiếng việt: Cóc, Thiềm tô

Tên khoa học: Secretio Bufonis

Họ: Cóc-Bufonidae

Công dụng: Thịt cóc dùng làm thuốc chữa bệnh cam còm của trẻ con. Vị thuốc có độc. Nhựa cóc thuộc loại thuốc độc bảng A. Cần chú ý, dùng phải cẩn thận.

A. Chế biến thiềm tô

  • Có nhiều cách bắt cóc. Tùy theo từng nơi có khác nhau. Có thể đợi đến tối, thắp một cái đèn để ở giữa cánh đồng, cóc thấy sáng nhảy tới mà bắt lấy. Bắt được cho vào rọ tre, dội nước cho thật sạch đất cát, chờ cho da hơi khô, thì bắt từng con, lấy tay trái giữ chân, tay phải dùng nhíp đè lên lưng cóc, vào những chỗ có tuyến tiết, chủ yếu ở 2 tuyến trên mắt. Hứng lấy nhụy đựng vào đĩa bằng sành hay sứ hoặc thủy tinh, tránh dùng đồ sắt, nhựa sẽ bị đen. Sau khi lấy nhựa xong có thể lại thả cóc ra, hoặc nếu định lấy thịt thì sẽ đem mổ.
  • Sau khi lấy được nhựa cóc phơi khô trên kính hay cho vào khuôn. Khoảng 1 vạn con cóc cho 1kg nhựa cóc khô (Đỗ Tất Lợi, Đào Kim Long, Dược học 1973, 5: 15-19). Khi lấy nhựa cóc cần chú ý kẻo nhựa cóc bắn vào mắt. Nếu bị nhựa cóc bắn vào mắt thì lập tức dùng nước ép của cây tử thảo mà rửa thì khỏi sưng. Ta có thể kích thích vào những hạch tiết ở gần mắt của cóc. Hoặc cho cóc vào cái hộp hay bình thủy tinh, đậy nắp có lỗ, qua lỗ luồn vào một que tre mà kích thích con cóc cho chảy nhựa.
  • Nhựa tiết ra đem phơi như trên: Có nơi lại trộn nhựa với bột nặn thành bánh tròn nhỏ, dẹt, đường kính 2,5-6cm. Do cách chế biến khác nhau hình dáng và chất lượng có thể khác nhau. Ở Việt Nam, việc thu hoạch nhựa cóc chưa được chú trọng. Thường vẫn phải nhập. Lẻ tẻ có người lấy một ít để dùng riêng.

B. Chế thịt cóc và cóc khô

Ngoài hình thức dùng nhựa cóc nói trên, trong nhân dân còn dùng thịt cóc để chế thuốc cam chữa bệnh cho trẻ con như sau:

  • Chọn những con cóc to, cóc đen hay da vàng đều dùng được. Trong nhân dân hiện nay chỉ tránh dùng loại cóc mắt đỏ. Dùng dao, thật sắc chặt đầu ở phía dưới 2 u to trên đầu mà bỏ đi. Khía dọc xương sống và lột hết da, moi bỏ hết ruột gan, phổi và nhất là trứng cóc. Trong khi chế biến cần tránh không để cho mủ (nhựa) cóc dính vào thịt: Muốn vậy, sau khi thịt cóc xong cần rửa cho thật sạch, khỏa mạnh vào nước, cho vào chảo gang rang cho khô giòn (hoặc có thể sấy cho khô giòn) mà tán thành bột. Khi để lâu cần để hết sức khô ráo, tránh ẩm dễ thối hỏng. Có nơi để nguyên cả con, cả xương phơi khô.
  • Tại Trung Quốc người ta cũng dùng hình thức này gọi là cóc khô: Can thiền-Bufo Siccus, cũng mổ, bỏ ruột, bổ gan trứng rồi phơi hay sấy khô. Cần chú ý bỏ hết gan ruột và toàn bộ trứng cũng như da vì có độc, ở ta đã xảy ra nhiều vụ ngộ độc rất thương tâm do chế không đúng phương pháp.
  • Còn có nơi bắt được cóc, buộc chân cho không nhảy được, bọc đất cho kín, rồi đem nung cho đến khi cục đất đỏ như cục than hồng, lấy ra đập bỏ đất lấy than con cóc mà dùng làm thuốc. Cũng có khi người ta để nguyên cả con cóc sống kẹp giữa hai hòn gạch, đem nung đỏ, lấy than cóc còn lại mà dùng.
  • Dù sao, dùng nhựa cóc hay thịt cóc cần hết sức chú ý đến liều lượng không được dùng quá.

C. Thành phần hóa học

  • Trong nhựa cóc có những chất tác dụng không mạnh như cholesterol, axit ascocbic, các chất phá huyết, còn có những chất rất độc như: bufogin, bufotalin, bufotoxin, bufotenin, bufotenidin, bufotionin, và nhiều hoạt chất khác chưa biết rõ.
  • Các hợp chất này có thể chia làm 3 loại:
  1. Hợp chất không có nitơ giống như chất scilaridin hay như những genin và glucoxit chữa tim có trong lá dương địa hoàng Digitalis.
  2. Hợp chất dẫn xuất của nhóm steroit.
  3. Hợp chất chứa nitơ dẫn xuất của hydroxyindol và tryptamin.
  • Chất căn bản trong các hợp chất đó có thể là chất bufotoxin C40H62O11N4 hay viết cho đúng hơn C40H40O10N4.H2O,. Bufotoxin là một chất có tinh thể, không tan trong nước, trong ête, axeton, ít tan trong rượu, tan trong pyridin, rượu metylic. Độ chảy: 204-205°C.
  • Đun sôi với HCl đặc, nó sẽ cho acginin, axit suberic và một chất mới gọi là bufotalin. Bufotalin hay bufotalol không phải là một glucozit vì khi thủy phân không cho phần đường. Công thức của nó là C26H3606. Đây là một chất có tinh thể, ít tan trong nước và trong ête, tan trong rượu và clorofoc. Độ chảy 148°C, có tác dụng giống như một chất glucozit chữa tim. Bufotalin là một hợp chất thuộc nhóm steroit, có nhân căn bản là nhânmetyl-cyclo-penteno-phenanthren. Khi phân tích, nó cho một đồng phân của axit desoxycholic, do đó có liên quan tới axit mật. Bufogin hình như là estemetylic của bufota-lin.
  • Chất bufotenin C12H16ON2 là một chất kiềm, tính chất như dầu, ít tan trong nước, tan trong rượu, ête, axeton, cho với axit các muối có tinh thể. Độ chảy 147°C. Nó là dẫn xuất của nhân indol và có công thức 5 hydroxy-N metyl tryptamin. Chất bufotenidin có kiến trúc căn bản như bufotenin. Chất bufothiodin C12H14O4N2S khi thủy phân sẽ cho axit sunfuric. b)Trong thịt cóc, theo sự nghiên cứu của Viện vệ sinh Hà Nội, tháng 3-1962, thì có 53,37% protit, 12,66% lipit, rất ít gluxit, 23,56% tro và 4,18% độ ẩm. Trong protit có rất nhiều axit amin có giá trị (Viện vệ sinh Hà Nội, tháng 7-1961) chủ yếu là asparagin, histidin, axit glutamic, glycocol, threonin, axit aminobutyric, tyrosin, methionin, leuxin, isoleuxin, phenylanin, tryprophan, xystein. Như vậy giá trị dinh dưỡng của thịt cóc rất cao.
  • Năm 1975 Trần Tích và cộng sự (Y học Việt Nam I. 1975: 1-8) đã phân tích trong thịt cóc Kẽm Mangan (mg %) (mg %) Cóc 2,45 2,89 Ếch 0,30 0,40 Gà 1,80 0,10 Bò 1,40 0,25 Lợn 0,60 – có hàm lượng mangan và kem khá cao hơn so với một số thịt khác như ếch, gà, bò và lợn

D. Tác dụng dược lý

Nhựa cóc có một số tác dụng như sau:

  • Tác dụng gây tê cục bộ. Khi đắp nhựa cóc lên da hay niêm mạc thì lúc đầu thấy có hiện tượng kích thích, sau thấy tê cục bộ. Người ta chưa rõ tác dụng đó do chất gì trong nhựa cóc.
  • Tác dụng trên tim gần giống chất glucozit chữa tim trong dương địa hoàng (Digitalis). Nãm 1933, Trần Khắc Khôi và cộng tác đã tiến hành nghiên cứu tác dụng của nhựa cóc lên tim động vật, kết quả chủ yếu như sau:
  1. Khi tiêm dung dịch loãng nhựa cóc vào màng bụng của ếch thì thấy tim đập chậm lại, dẩn dần ngừng ở thể tâm thu.
  2. Tiêm dung dịch nhựa cóc vào tĩnh mạch chó và mèo gây mê thì thấy tim đập chậm lại, không theo quy luật gì cả, đồng thời huyết áp tăng cao; nếu tiêm liều cao thì tim ngừng đập mà chết.
  3. Nếu nhìn điện tâm đồ của mèo gây mê bằng ête rồi tiêm dung dịch nhựa cóc thì thấy P-R dài ra, tim đập chậm lại. Nếu như trước khi tiêm nhựa cóc đem cắt hai bên dây vagus (thần kinh phế vị) hoặc tiêm atropin, thì không thấy ảnh hưởng. Trần Khắc Khôi cho rằng độc tính của nhựa cóc là do tác dụng trên thần kinh vagus hoặc trực tiếp trên cơ tim.
  4. Khi uống nhựa cóc, có thể có tác dụng kích thích trên niêm mạc dạ dày và gây nôn như khi dùng dương địa hoàng (Digitalis).
  • Lấy riêng từng chất trong nhựa cóc thì:
  1. Các hợp chất sterolic có tác dụng chủ yếu đối với tim.
  2. Các hợp chất có nitơ, có tác dụng chủ yếu trên cơ trơn ở ruột và trung tâm thần kinh. Bufotalin tác dụng vận mạch ở thân như digita- lin, làm chậm hô hấp và tăng biên độ. Đối với người, nó làm tăng áp lực tim bóp mà không giảm áp suất tâm giãn (diastolic) do đó biên độ tim tăng lên.
  3. Bufotenin sẽ gây tăng huyết áp với hiện tượng kéo dài co mạch ở thận. Bufotenidin có tác dụng tăng huyết áp mạnh.
  4. Do đó chúng ta thấy tác dụng của nhựa cóc rất phức tạp.

E. Công dụng và liều dùng

  • Hiện nay tây y không dùng cóc và nhựa cóc chữa bệnh. Trái lại đông y rất hay dùng cóc trong một số bệnh hiểm nghèo. Nhựa cóc là một trong số 6 vị trong đơn thuốc lục thần hoàn. Trong nhân dân dùng cóc, nhựa cóc chữa các bệnh chó dại, trẻ em kém ăn gầy còm, chậm lớn, phát mụn nhọt, cam răng.
  • Theo tài liệu cổ, nhựa cóc có vị ngọt, cay, tính ôn, có độc, vào kinh vị. Có tác dụng giải độc, tán thũng, giảm đau. Dùng ngoài và uống trong đều được. Dùng chữa phát bối, đinh độc, yết hầu sưng đau, đau răng.
  • Liều dùng: Nhựa cóc dùng với liều rất thấp, cần chú ý có thể ngộ độc chết người; không phải thầy thuốc quen dùng không nên tự động. Ngày uống 1mg đến 10 hay 20mg dưới dạng bột hay viên. Thịt cóc khô dùng với liều 2-3g tán bột uống hay làm thành thuốc viên.

Đơn thuốc có thịt cóc và nhựa cóc dùng trong nhân dân

  1. Lục thần hoàn: Chữa sốt nặng trúng độc, mê man tim suy nhược. Xạ hương 1g, thiềm tô (nhựa cóc) 1g, tây ngưu hoàng 1,50g, minh hùng hoàng 1g, châu phấn (trân châu) 1,50g, băng phiến 1g, thiềm tô để riêng, các vị khác đem tán nhỏ, thêm thiềm tô tẩm rượu vào, làm thành viên to bằng hạt cải (bằng đầu đinh ghim); dùng muội bếp (bách thảo sương) làm áo thuốc viên. Mỗi lần uống 5-10 viên, ngày uống 1-2 lần.
  2. Bài thuốc cam cóc chữa suy dinh dưỡng (do gia đình cụ Nguyễn Trọng Tấn cống hiến cho Viện nghiên cứu đông y và đã được hợp tác xã Vĩnh Ngãi sản xuất): Bột cóc 10 phần, bột chuối 14 phần, lòng đỏ trứng 2 phần.
    Cách làm như sau: Bột cóc chế như phần trên đã nói, trứng gà đập bỏ lòng trắng, lấy lòng đỏ hấp chuối, sấy khô, tán thành bột. Chuối bỏ vỏ, bổ dọc sấy cho vừa dẻo nhuyễn. Cả ba thứ trộn đều làm thành viên, mỗi viên 4 gam. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 2 viên. Chữa trẻ con bị suy dinh dưỡng, gầy còm, biếng ăn, ỉa chảy. Dùng luôn trong 2-3 tháng.
  3. Bài thuốc khác chữa cam tích trẻ em: (bụng to, người vàng, gầy). Bắt cóc, lột bỏ da, bỏ cả đầu mình, ruột, gan và trứng. Chỉ lấy hai cái đùi, phết dầu vừng hay mỡ nướng ăn. Ăn luôn trong 5-6 ngày, mỗi ngày một lần.
  4. Bài thuốc chữa cam tẩu mã: Con cóc lấy đất bọc kín, đốt thành than. Cân lấy 12g, hoàng liên 10g, thanh đại 4g, xã hương 0,8g. Tất cả tán nhỏ, xỉa vào chỗ răng và lợi bị cam đã rửa sạch bằng nước muối.

Chú thích:

Là vị-thuốc có độc, nên khi chế biến phải sạch và làm theo đúng sự hướng dẫn của thầy thuốc.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top