✴️ Các yếu tố nguy cơ có thể điều trị được đối với đột quỵ là gì?

Nội dung

Đột quỵ là một bệnh suy nhược ảnh hưởng đến một số người trên toàn thế giới. Tình trạng này có thể là một nguyên nhân đáng kể của bệnh tật và tử vong. Lối sống không lành mạnh như hút thuốc, uống rượu, ăn uống thiếu chất và giảm mức độ hoạt động thể chất đã dẫn đến việc gia tăng khả năng tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ đột quỵ, đặc biệt là ở những người trẻ tuổi.

Ở Việt Nam, đột quỵ là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và là một vấn đề sức khỏe đáng kể ở người cao tuổi (Lê, 2015). Khảo sát 78 bệnh viện tỉnh tại Việt Nam cho thấy 62,4% bệnh nhân đột quỵ đã trên 60 tuổi (Bộ Y tế-Việt Nam, 2008)

 

Một số yếu tố nguy cơ quan trọng nhất có thể điều trị được đối với đột quỵ được mô tả dưới đây:

1. Cao huyết áp, hoặc tăng huyết áp

Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ phổ biến nhất và mạnh nhất của đột quỵ. Nó có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ lên gấp 2-4 lần. Các cơ chế gây ra điều này liên quan đến mảng xơ vữa trong mạch cảnh, động mạch đốt sống và cung động mạch chủ; di động của các động mạch não nhỏ; rối loạn chức năng thất trái và rung nhĩ.

Có một mối quan hệ chặt chẽ, trực tiếp, tuyến tính và liên tục giữa huyết áp và nguy cơ đột quỵ. Các thử nghiệm ngẫu nhiên về phòng ngừa đột quỵ nguyên phát đã xác nhận rằng điều trị tăng huyết áp làm giảm tỷ lệ đột quỵ.

Nhận thức được nâng cao và sự sẵn có của nhiều lựa chọn điều trị đã cải thiện cách kiểm soát bệnh tăng huyết áp. Ngoài các biện pháp điều trị nội khoa nên thực hiện một lối sống lành mạnh bao gồm thay đổi chế độ ăn uống và hoạt động thể chất.

2. Hút thuốc lá

Nhiều nghiên cứu được thực hiện trên nhiều dân tộc và dân số khác nhau chứng minh mối liên hệ chặt chẽ giữa hút thuốc và đột quỵ. Hút thuốc có liên quan đến việc tăng gấp 2 lần nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ và tăng tới 4 lần nguy cơ đột quỵ do xuất huyết.

Hút thuốc lá góp phần tạo ra mảng bám động mạch cảnh, tăng độ nhớt và khả năng đông máu của máu, tăng kết tập tiểu cầu và tăng huyết áp. Thậm chí, hút thuốc lá thụ động có thể làm tăng tiến triển của xơ vữa động mạch do đó làm tăng nguy cơ đột quỵ.

3. Bệnh tim

Bệnh tim là nguyên nhân chính gây ra các biến cố mạch máu não cấp tính và được báo cáo là xảy ra ở khoảng một phần ba số người bị đột quỵ.

Bệnh động mạch vành, suy tim sung huyết và rung nhĩ là một số tình trạng liên quan đến đột quỵ. Trong số này, rung nhĩ và cuồng nhĩ là những yếu tố nguy cơ chính liên quan đến đột quỵ tim mạch. Chúng có liên quan đến tỷ lệ tử vong và tàn tật cao hơn, đặc biệt là ở những người trên 80 tuổi. Khả năng tắc mạch trong tương lai cũng cao ở những bệnh nhân mắc các bệnh tim đi kèm, chẳng hạn như rung nhĩ và hẹp van hai lá.

4. Bệnh tiểu đường

Cũng giống như bệnh tim, tiểu đường là một yếu tố nguy cơ chính gây đột quỵ. Bệnh tiểu đường có thể gây ra những thay đổi bệnh lý trong các mạch máu ở nhiều vị trí khác nhau và làm tăng nguy cơ đột quỵ nếu các mạch máu não bị ảnh hưởng trực tiếp.

Nguy cơ đột quỵ ở bệnh nhân tiểu đường cao gấp 2 lần. Tỷ lệ tử vong cao hơn ở những bệnh nhân bị đột quỵ với lượng đường không được kiểm soát - đột quỵ chiếm 20% các ca tử vong do đái tháo đường. Ngoài ra, kết quả sau đột quỵ kém hơn ở bệnh nhân tiểu đường.7

Những bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường trong thời gian dài sẽ có nguy cơ bị đột quỵ cao. Những người bị tiền tiểu đường cũng có nguy cơ cao bị đột quỵ do thiếu máu cục bộ (tái phát).

Các cơ chế khiến bệnh tiểu đường làm tăng nguy cơ đột quỵ bao gồm: 

  • Tăng tốc độ xơ vữa động mạch lớn do tổn thương do glycosyl hóa gây ra
  • Tác dụng ngoại ý đối với cả mức độ lipoprotein mật độ thấp và cholesterol lipoprotein mật độ cao
  • Thúc đẩy sự hình thành mảng bám do tăng insulin máu
  • Quản lý bệnh tiểu đường với kiểm soát đường huyết chuyên sâu được báo cáo là làm giảm các biến chứng vi mạch liên quan đến bệnh tiểu đường như bệnh thần kinh, bệnh võng mạc và bệnh thận.
  • Thay đổi lối sống, cũng như sử dụng nhanh chóng và liên tục các liệu pháp dược lý dựa trên bằng chứng, có thể giúp cải thiện kết quả đột quỵ ở những người mắc bệnh tiểu đường.

5. Mất cân bằng cholesterol

Mức cholesterol toàn phần và lipoprotein mật độ cao (HDL) cao hơn và thấp hơn có liên quan đến tăng nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ, trong khi mức cholesterol toàn phần thấp và cholesterol lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL) có liên quan đến tăng nguy cơ xuất huyết trong não.

Tăng lipid máu gây xơ vữa động mạch ngoại sọ và thúc đẩy xơ vữa động mạch cổ hoặc động mạch vành, làm tăng nguy cơ đột quỵ do xơ vữa và tim mạch.

Một số biện pháp can thiệp điều chỉnh lipid được báo cáo là làm giảm nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ. Chúng bao gồm các chất ức chế PCSK9 (proprotein convertase subtilisin-kexin type 9), ezetimibe, 3-hydroxy-3-methylglutaryl coenzyme A reductase A reductase (statin), etylic axit eicosapentaenoic tinh khiết, axit nicotinic (niacin) và gemfibrozil.

6. Ít vận động và béo phì

Béo phì và lười vận động có liên quan đến các yếu tố nguy cơ đột quỵ như tăng huyết áp, tiểu đường và bệnh tim.

Béo phì có liên quan đáng kể đến nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ ngày càng tăng. Các nghiên cứu chỉ ra rằng mỗi đơn vị BMI tăng lên có liên quan đến việc tăng đáng kể 6% nguy cơ đột quỵ tương đối đã được điều chỉnh. Giảm cân được khuyến khích để phòng ngừa đột quỵ chính ở bệnh nhân thừa cân hoặc béo phì.

Hoạt động thể chất là một thành phần quan trọng của các chiến lược phòng ngừa đột quỵ chính. Hoạt động thể chất thường xuyên có thể cải thiện chức năng mạch máu và các yếu tố nguy cơ đột quỵ. Hoạt động thể chất làm giảm nguy cơ tăng huyết áp, đái tháo đường týp 2, trầm cảm và béo phì, cũng như kiểm soát các yếu tố nguy cơ này.

 

Lời khuyên dành cho bệnh nhân? 

Mặc dù các ca bệnh đang gia tăng, nhưng vẫn thiếu các biện pháp quản lý đột quỵ hiệu quả, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Một cách tiếp cận tổng hợp, đặc biệt tập trung vào các chiến lược phòng ngừa đột quỵ nên được ưu tiên.

Bác sĩ chăm sóc ban đầu đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh giá nguy cơ đột quỵ và nhận biết sớm các triệu chứng. Họ cũng hỗ trợ giới thiệu nhanh chóng đến các trung tâm cao hơn, nơi có sẵn các phương tiện quản lý. Các bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu cũng có thể hỗ trợ bệnh nhân bằng cách khuyên tuân thủ thuốc.

Mục tiêu chính của phòng ngừa đột quỵ chính phải là giảm khả năng bị đột quỵ bằng cách giảm nguy cơ phát triển các yếu tố nguy cơ hoặc kiểm soát các yếu tố nguy cơ khác nhau (như đái tháo đường, tăng huyết áp) làm tăng khuynh hướng bị đột quỵ. Thay đổi lối sống và sử dụng thuốc điều trị đúng lúc là điều quan trọng để giảm nguy cơ đột quỵ.

Bác sĩ chăm sóc ban đầu có vai trò thiết yếu trong quản lý chăm sóc sau cấp tính và phòng ngừa thứ phát cho bệnh nhân đột quỵ. Phòng ngừa thứ phát hiệu quả là rất quan trọng để giảm nguy cơ đột quỵ tái phát và giảm tàn tật và tử vong.

 

Nguồn tham khảo: 

1. https://hoithankinhhocvietnam.com.vn/cac-yeu-to-lien-quan-den-ganh-nang-cham-soc-cua-thanh-vien-trong-gia-dinh-co-nguoi-cao-tuoi-mac-dot-quy-o-hai-duong-viet-nam/

2. Boehme AK, Esenwa C, Elkind MS. Stroke Risk Factors, Genetics, and Prevention. Circ Res. 2017;120(3):472-495.

3. Di Legge S, Koch G, Diomedi M, Stanzione P, Sallustio F. Stroke prevention: managing modifiable risk factors. Stroke Res Treat. 2012;2012:391538.

4. Brain Basics: Preventing Stroke. NIH.

5. Stroke in Primary Care Patients, Part I: Risk Factors, Clinical Presentation, and Pathophysiology. Relias Media.

6. Arboix A. Cardiovascular risk factors for acute stroke: Risk profiles in the different subtypes of ischemic stroke. World J Clin Cases. 2015;3(5):418-429.

7. Chen R, Ovbiagele B, Feng W. Diabetes and Stroke: Epidemiology, Pathophysiology, Pharmaceuticals and Outcomes. Am J Med Sci. 2016;351(4):380-386.

8. Hackam DG, Hegele RA. Cholesterol Lowering and Prevention of Stroke. Stroke. 2019;50(2):537-541.

9. Menet R, Bernard M, ElAli A. Hyperlipidemia in Stroke Pathobiology and Therapy: Insights and Perspectives. Front Physiol. 2018;9:488.

10. Oesch L, Tatlisumak T, Arnold M, Sarikaya H. Obesity paradox in stroke - Myth or reality? A systematic review. PLoS One. 2017;12(3):e0171334.

11. Howard VJ, McDonnell MN. Physical activity in primary stroke prevention: just do it!. Stroke. 2015;46(6):1735-1739.

12. Guidelines for Prevention and Management of Stroke. Directorate General of Health Services Ministry of Health and Family Welfare Government of India. 2019.

13. Geary L, Hasselström J, Carlsson AC, Eriksson I, von Euler M. Secondary prevention after stroke/transient ischemic attack: A randomized audit and feedback trial [published correction appears in Acta Neurol Scand. 2021 Mar;143(3):336]. Acta Neurol Scand. 2019;140(2):107-115.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top