✴️ Ancylostomidae- Giun móc và giun mỏ (P1)

Giun móc và giun mỏ thuộc họ Ancylostomidae, thường có tên chung là giun móc. Bệnh giun móc/mỏ đã được y văn cổ thế giới mô tả cách đây 2.400 năm. Năm 1838, Dubini tìm ra nguyên nhân gây bệnh là Ancylostoma duodenale (A.duodenale) và năm 1902 Stiles phát hiện loài thứ hai là Necator americanus (N.americanus). A.duodenale thuộc giống Ancylostoma, miệng có răng hình móc, phân bố nhiều ở châu Âu, Tây Nam Á. N. americanus thuộc chi Necator, miệng có những tấm răng, phân bố nhiều ở châu Phi nhiệt đới, châu Mĩ.

Nhưng trong những thập kỉ vừa qua, cả 2 loại giun này có sự phân bố rộng rãi khắp vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới. Đường ranh giới phân bố 2 loại giun này có khác nhau về đặc điểm hình thể, vòng đời sinh học, nhưng có nhiều đặc điểm giống nhau về hình thái, bệnh học, phòng chống.

Ngoài 2 loại giun đã nêu trên, người có thể bị nhiễm giun móc Ancylostoma ceylanicum (A.ceylanicum), tuy không phổ biến nhưng rất đáng quan tâm ở một số nơi: Trung Quốc, Đông Nam  Á,... Giun móc A.ceylanicum thường gây bệnh ở chó, mèo, vòng đời sinh học gần giống như A. duodenale.

Ở Việt Nam, bệnh giun móc rất nặng nề, cả về tỉ lệ nhiễm, cường độ nhiễm, giun N.americanus phổ biến hơn khoảng 90%, giun A.duodenale khoảng 10%.

Tuy nhiên hầu hết các cơ sở y tế nước ta chưa có điều kiện phân biệt 2 loại giun này. Trên thế giới có khoảng 1.297 triệu người nhiễm (1994), ở Việt Nam có khoảng 40 triệu người nhiễm (1994).

Hình 10.11: Bản đồ phân bố tình hình nhiễm giun móc/mỏ trên thế giới.

 

ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỂ.

Giun móc/mỏ trưởng thành:

Giun móc A. duodenale:

Màu trắng sữa hoặc hồng, kích thước giun đực 7 - 10 x 0,5 mm, giun cái 10-15  x 0,6 mm. 

Đầu có bao miệng hơi phình và cong, miệng có 2 đôi răng hình móc, bố trí cân đối, mỗi bên một đôi. 

Thực quản tiếp theo miệng, chiếm 1/6 chiều dài cơ thể, hình ống, nối với ruột, chạy về phía sau, hậu môn đổ ra phía bụng, gần tận cùng đuôi. 

Cơ quan sinh dục cái có buồng trứng, hai ống đổ chung vào sinh dục ở 1/3 giữa thân về phía bụng. 

Cơ quan sinh dục đực: gồm tinh hoàn, ống dẫn tinh, tới lỗ sinh dục đực ở hậu môn, có 2 gai sinh dục.

Đuôi xoè rộng ra, có cốt cứng như bàn chân ếch. Cốt này có những đặc điểm đặc hiệu giúp cho phân loại giun móc.

Giun móc cũng có hệ thống thần kinh, hệ bài tiết. Đặc biệt chú ý các hạch đầu, bụng, hậu môn. Hai hạch tiết ở đầu có liên quan tới việc tiết ra các chất chống đông máu, tan rữa mô, tổ chức.

Giun mỏ N. americanus:

Nhìn đại thể khó phân biệt với giun móc Ancylostoma, nhưng vẫn có những đặc điểm khác biệt.

Thân giun N. americanus ngắn, mảnh hơn.

Miệng giun Necator hơi tròn, không có móc, thay vào vị trí đó là những tấm răng hình bán nguyệt sắc bén. 

Hình 10.12: Hình thể giun móc/mỏ trưởng thành.

A: Giun đực; B: Giun cái; C: Ấu trùng.

D và E: Miệng giun móc và giun mỏ.

Có thể phân biệt 2 loại giun theo bảng sau:

Hình thể trứng:

Bình thường thì rất khó phân biệt trứng giun A.. duodenale và trứng giun N.americanus, trứng hình trái soan, vỏ mỏng, trong suốt, không màu, khi mới sinh đã phân cắt thành 4 - 6 phần. Nhìn chung, trứng giun Necartor dài, thon hơn trứng giun Ancylostoma. Kích thước trứng Necator khoảng 70µm, trứng giun Ancylostoma khoảng 60µm.                                                               

Hình thể ấu trùng:

Rất khó phân biệt ấu trùng của giun Ancylostoma và Necator. 

Ấu trùng giai đoạn I (Larva rhabditiform): kích thước khoảng 250 x 17µm, phát triển khoảng 3 ngày, thực quản phần đầu hơi phình gọi là củ trước,  phần giữa hẹp, phần cuối có ụ phình tròn, hình củ hành gọi là củ sau, ấu trùng giai đoạn I còn gọi là ấu trùng có thực quản hình củ.

Hình 10.13: Hình thể trứng giun móc/mỏ (A.duodenale/N.americanus).

Ấu trùng giai đoạn II: phát triển chừng 5 ngày, thực quản chuyển thành hình trụ, mất ụ phình, chưa có khả năng chui qua da.

Ấu trùng giai đoạn III (Larva filariform): kích thước 550 ´ 60 mm, có khả năng xuyên qua vật chủ.

 

ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC.

Vòng đời của 2 loại A.duodenale và N.americanus không hoàn toàn giống nhau. Có những điểm khác biệt quan trọng. Giun Necator chỉ lây qua đường da. Cũng có tác giả nêu rất hiếm thấy qua đường tiêu hoá. Giun Ancylostoma lây nhiễm cả qua đường tiêu hoá cả qua đường da, nhưng nhiễm qua đường tiêu hoá là chủ yếu. Vòng đời sinh học của giun Ancylostoma lây qua đường da giống như giun Necator.

Vòng đời các loại giun móc lây nhiễm qua đường da:

Vị trí kí sinh: 

Giun móc kí sinh ở tá tràng, nếu số lượng giun nhiều có thể thấy giun móc kí sinh cả phần đầu và phần giữa của ruột non. Giun móc ngoạm vào niêm mạc ruột để chiếm thức ăn và chống lại nhu động ruột. Cả giun đực và giun cái trưởng thành đều sống kí sinh.

Dinh dưỡng của giun móc: 

Theo Wel (1931), quan sát giun móc chó: thấy giun móc ngoạm vào niêm mạc ruột hút máu và thải máu ra hậu môn giun sau 1- 4 phút. Theo báo cáo kĩ thuật của Tổ chức Y tế thế giới (1982): một giun móc A.duodenale hút 0,16 - 0,34 ml máu/ngày, một giun N.americanus hút 0,03 - 0,05 ml máu/ngày.         

Giun móc ăn máu, ăn hồng cầu, huyết sắc tố, ăn sắt trong hồng cầu và cả sắt huyết thanh, axit folic, protein huyết thanh... Giun móc có nhu cầu sử dụng protein huyết thanh nhiều hơn hồng cầu. Những chất dinh dưỡng giun móc chiếm của vật chủ là những chất đã đồng hoá.

Vòng đời sinh học: 

Sau khi giao phối, giun cái đẻ trứng ở ruột non, một giun cái Ancylostoma đẻ 30.000 trứng/ngày đêm, một giun cái Necator đẻ 9.000 trứng/ngày đêm. Trứng theo phân ra ngoài chịu ảnh hưởng của các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng... của ngoại cảnh, phát triển thành ấu trùng.

Ấu trùng lúc đầu có kích thước 0,2 -  0,3 x 0,017 µm, đầu hơi tù, đuôi nhỏ, thực quản có ụ phình. Ấu trùng giai đoạn I sống trong đất, lớn nhanh, ăn các chất hữu cơ ở đất. Sau khoảng 3 ngày, lột xác thành ấu trùng giai đoạn II, thực quản phần trên hình trụ, phần dưới hình củ. Ấu trùng giai đoạn II phát triển chừng        5 ngày, thực quản chuyển thành hình trụ mất ụ phình, lột xác lần thứ 2 để chuyển thành ấu trùng giai đoạn III, có khả năng chui qua da vật chủ vào cơ thể, ấu trùng giai đoạn III có hướng động đặc biệt để tìm vật chủ, có thể sống tới 6 tuần ở đất, ấu trùng giai đoạn III không ăn uống gì, di chuyển bằng năng lượng dự trữ, ấu trùng ưa nơi đất cát, nhiệt độ thích hợp 28 - 32°C.

Sau khi chui qua da xâm nhập vào cơ thể vật chủ, ấu trùng theo đường tĩnh mạch tới tim phải rồi tới phổi, ấu trùng chọc thủng mao mạch vào phế nang, theo khí quản lên họng, đến thực quản, xuống dạ dày, ruột phát triển thành giun trưởng thành, kí sinh ở tá tràng hoặc ruột non. Từ ấu trùng giai đoạn III phát triển thành giun trưởng thành phải trải qua 2 lần lột vỏ thành ấu trùng giai đoạn IV (cần 3 - 7 ngày), thành ấu trùng giai đoạn V (cần khoảng 13 ngày), ấu trùng giai đoạn V cần 3 - 4 tuần mới phát triển thành giun trưởng thành. 

Như vậy giai đoạn phát triển ở ngoại cảnh và giai đoạn kí sinh, ấu trùng qua   5 lần lột vỏ. Thời gian hoàn thành vòng đời cần 5 - 7 tuần, có giai đoạn ấu trùng chu du trong cơ thể như giun đũa.

Gần đây người ta đã chứng minh: trong vòng đời sinh học của giun móc Ancylostoma lây nhiễm qua đường da, ấu trùng có giai đoạn ngủ (thời kì nằm yên) ở tổ chức của vật chủ. Giai đoạn ngủ có thể kéo dài tới 8 tháng, đây là một tiến bộ trong lĩnh vực nghiên cứu sinh học giun móc. 

Tới nay vẫn chưa hiểu biết hết những biến đổi của ấu trùng giun móc trong giai đoạn ngủ, ấu trùng giun móc ở giai đoạn ngủ kháng lại với hầu hết các thuốc, các hoá chất đặc hiệu điều trị giun móc. Sau thời gian ngủ ấu trùng lại tiếp tục phát triển để hoàn thành vòng đời. Hiện tượng ngủ của ấu trùng giun móc cũng có thể xảy ra ở cơ của các động vật có vú khác, do vậy gợi ý có thể nhiễm giun móc do ăn thịt sống, chưa nấu chín. 

Người ta đã chứng minh bằng thí nghiệm gây nhiễm ấu trùng giun móc vào động vật mồi, rồi cho chó ăn thịt động vật mồi, ấu trùng giun móc tiếp tục phát triển thành giun trưởng thành ở chó. 

Qua nhiều nghiên cứu gây nhiễm thực nghiệm, người ta thấy không phải tất cả các ấu trùng giun móc Ancylostoma đều có giai đoạn ngủ. Có những ấu trùng giun móc Ancylostoma sau khi chu du trong cơ thể, đến thẳng ruột phát triển thành giun trưởng thành. Nhưng một số ấu trùng có giai đoạn ngủ ở tổ chức trước khi di chuyển tới phổi và ruột.

Hạn định đời sống của giun Necator: 10 - 15 năm, giun Ancylostoma ngắn hơn: 5 - 7 năm.

Vòng đời của giun móc lây qua đường tiêu hoá:

Vòng đời của giun móc lây qua đường tiêu hoá có nhiều điểm khác biệt quan trọng so với vòng đời giun móc lây qua đường da, ấu trùng giun móc Ancylostoma có thể theo thực phẩm tươi sống, rau quả... nhiễm qua đường ăn uống. Khi nhiễm qua đường này, ấu trùng không có giai đoạn chu du trong cơ thể. Ấu trùng xuống thẳng ruột non chui vào niêm mạc ruột, phát triển ở đó rồi chui ra lòng ruột, phát triển thành giun trưởng thành.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top