Các tài liệu y khoa chủ yếu tập trung vào cấu tạo vú và các rối loạn trên vú ở phụ nữ. Vú của nam giới ít được chú ý hơn, một phần vì nó là cơ quan tiêu giảm (rudimental), không có chức năng và một phần vì nó ít bị bệnh lý. Tuy nhiên, vú của nam giới có thể là nơi có nhiều tổn thương lành tính và ác tính cần được chẩn đoán và điều trị đúng.
Tuyến vú nằm giữa cơ ngực (pectoral muscle) và các mô dưới da.
Tuyến vú được cấu tạo phần lớn từ mô mỡ (adipose tissue) có hình đĩa, dẹt, nhỏ của mô tuyến sợi hơi xám. Tuyến vú bao gồm 15-25 ống dẫn sữa ngắn, phân nhánh, có lỗ nhỏ mở vào đỉnh của núm vú. Thông thường, không có sự hình thành các tiểu thùy cũng như dây chằng Cooper. Nguồn cung cấp máu động mạch xuất phát từ động mạch chính bên ngoài của Salomon, có nguồn gốc từ động mạch nách (axillary artery), động mạch vú trong (internal mammary artery) (còn được gọi là động mạch ngực trong-internal thoracic artery) và các nhánh động mạch liên sườn thứ 3,4,5. Sự dẫn lưu tĩnh mạch được cung cấp bởi hai mạch máu, một mạch máu ở bề mặt, một mạch máu ở sâu, hội tụ và đổ vào các tĩnh mạch liên sườn. Dẫn lưu bạch huyết được cung cấp chủ yếu bởi các hạch bạch huyết ở nách và ở mức ít hơn bởi các hạch thượng đòn và trong lồng ngực. Vú chứa chủ yếu các đầu tận dây thần kinh cảm giác bắt nguồn từ thần kinh liên sườn và thần kinh thượng đòn.
Trên siêu âm, núm vú xuất hiện dưới dạng một nốt nhỏ tăng âm với sự suy giảm âm nhẹ phía sau; khi có thể nhìn thấy, thể tích nhỏ của mô tuyến (glandular tissue) biểu hiện giảm âm (Hình 1). Da bao phủ bên trên là tăng âm và mô dưới da (hầu như là mỡ dưới da) là giảm âm với các đường sọc tăng âm biểu hiện cho các đường của mô sợi.
Đặc điểm siêu âm của vú nam giới trong tình trạng sinh lý: Ở phần nông, núm vú được thấy như một hình bầu dục, tăng âm với sự suy giảm âm nhẹ phía sau. Bên dưới nó là một lượng nhỏ mô tuyến, biểu hiện giảm âm so với núm vú.
Nữ hóa tuyến vú là sự phì đại của vú nam giới do sự tăng sinh lành tính của các ống tuyến và các thành phần mô đệm. Đây là dạng vú to phổ biến nhất ở nam giới. Một số dạng nữ hóa tuyến vú là sinh lý hoặc gần sinh lý (paraphysiological). Trong giai đoạn chu sinh, phì đại vú nam giới có thể do tiếp xúc với estrogen của người mẹ qua nhau thai. Ở tuổi dậy thì, nó có thể phát triển do sự không ổn định của nội tiết do mất cân bằng giữa nồng độ testosterone và estrogen trong máu. Và ở người lớn (60–80 tuổi), nữ hóa tuyến vú có thể do giảm tiết androgen kết hợp với giảm sự bất hoạt của estrogen tại gan.
Nữ hóa tuyến vú cũng có thể liên quan đến các tình trạng bệnh lý khác nhau, bao gồm u tế bào Leydig của tinh hoàn (testis); u tuyến thượng thận; sản xuất gonadotropin lạc chỗ do khối u ở phổi, gan, hoặc thận; suy gan hoặc suy thận; và cường giáp. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, nữ hóa tuyến vú có thể là tác dụng phụ của một số loại thuốc nhất định như hormone steroid, cimetidine, thuốc lợi tiểu thiazide, glucoside trợ tim, thuốc hạ huyết áp, thuốc chống trầm cảm và narcotic. Các trường hợp cũng có liên quan đến việc sử dụng steroid đồng hóa (anabolic steroids) bất hợp pháp, đặc biệt ở các vận động viên chuyên nghiệp.Biểu hiện lâm sàng bao gồm một khối mềm, đàn hồi, giống như nốt phía sau quầng vú (nodule-like retroareolar), đôi khi kết hợp với đau. Da bên ngoài còn nguyên vẹn và giống với các vùng lân cận.
Nữ hóa tuyến vú giả liên quan đến sự phì đại của vú (thường là hai bên) do dư thừa mô mỡ, điều này không nhất thiết liên quan đến tình trạng béo phì thể tạng (constitutional obesity) hoặc với sự biến đổi của nhu mô vú, có thể tích bình thường. Biểu hiện lâm sàng bằng sự gia tăng thể tích lan tỏa, không tạo nốt, và đối xứng (symmetrical). Chẩn đoán dựa trên các biểu hiện lâm sàng. Siêu âm cho thấy sự hiện diện của các vùng tiểu thùy của mô mỡ giảm âm đồng nhất và tách biệt với nhau bởi các dải mô sợi mảnh tăng âm.
Nữ hóa tuyến vú giả (Pseudogynecomastia): Siêu âm cho thấy nhiều tiểu thùy mỡ có cấu trúc giảm âm đồng nhất. Các tiểu thùy được ngăn cách bởi các nhánh của mô sợi tăng âm mảnh phía sau núm vú. Sau cùng (latter) được thấy như một cấu trúc tăng âm hình bầu dục với sự suy giảm âm phía sau trung bình (moderate posterior attenuation).
Ở nam giới, nang vú thường liên quan đến nữ hóa tuyến vú và chúng thường là những tổn thương đơn độc.
Viêm vú (Mastitis), cũng tương đối hiếm, là một quá trình viêm do vi khuẩn như tụ cầu (staphylococci) hoặc ít phổ biến hơn là liên cầu (streptococci). Các sinh vật xâm nhập vào tuyến qua núm vú do chấn thương (ví dụ, xỏ khuyên núm vú-nipple piercing). Viêm vú có liên quan đến các dấu hiệu điển hình của viêm tại chỗ: đau, đỏ, nóng, da dày và phù nề.
Áp xe dưới vú (Subareolar abscesses) là tổn thương viêm nhiễm thường gặp nhất ở vú nam giới. Chúng thường là kết quả của viêm vú mãn tính khu trú. Các ổ áp xe có xu hướng tái phát nếu chúng không được điều trị đầy đủ và có thể phải phẫu thuật cắt bỏ mở rộng đến các ống dẫn liên quan. Các đặc điểm lâm sàng của áp xe thường tương tự như của một tổn thương khối u (neoplastic lesion) và chẩn đoán thường dựa trên dữ liệu kết hợp từ bệnh sử bệnh nhân, khám vú và xét nghiệm hình ảnh.
Bướu mỡ là tổn thương lành tính phổ biến thứ hai ở vú nam giới.
Bướu mỡ là một khối được xác định rõ, có vỏ bao chứa các tế bào mỡ. Nó thường không có triệu chứng và biểu hiện dưới dạng một khối nhỏ, sờ thấy có thể mềm hoặc cứng (khi bị vôi hóa). Khối này được bao quanh bởi vỏ bao mỏng, tăng âm và không liên quan đến bóng lưng phía sau hoặc tăng cường âm trong quá trình kiểm tra với điều kiện có chất tương phản. Những bướu mỡ nhỏ có thể biểu hiện tăng âm và những bướu mỡ bị vôi hóa và tăng âm có thể biểu hiện bóng lưng phía sau.
Bướu mỡ (Lipoma): Siêu âm cho thấy một khối đồng nhất, đường bờ rõ, tăng âm nhẹ so với lớp mỡ dưới da. Trục dài của nó nằm song song với lớp da. Khối này được bao quanh bởi một bao mỏng, tăng âm và không có bóng lưng phía sau.
Bướu sợi tuyến rất hiếm ở vú nam giới do không có các tiểu thùy tuyến. Rất ít trường hợp được mô tả, và nhiều trường hợp trong số này đã phát triển trong quá trình kích thích estrogen. Các đặc điểm siêu âm tương tự như bướu sợi tuyến ở vú phụ nữ.
Bướu sợi tuyến (Fibroadenoma): Siêu âm cho thấy một khối nhiều thùy hình bầu dục có giới hạn, giảm âm không đồng nhất (bướu sợi tuyến với các vùng thoái hóa myxoid) với đường bờ được xác định rõ (A). Doppler màu cho thấy nhiều điểm cực mạch máu nhưng sự phân bố mạch máu hài hòa (B).
Các khối u ác tính ở vú tương đối hiếm ở nam giới. Thường xảy ra dưới dạng các khối đau, khu trú và thường được tìm thấy ở dưới quầng vú hoặc ở ¼ phần tư trên ngoài của vú. So với nữ hóa tuyến vú, những tổn thương này thường lệch tâm (eccentric) so với núm vú. Khối này có thể dính vào da hoặc cơ ngực. Các biểu hiện lâm sàng khác bao gồm co rút núm vú và chảy máu từ núm vú. Một số yếu tố nguy cơ đã được xác định đối với bệnh ung thư vú ở nam giới bao gồm tuổi tác, tiền sử gia đình (BRCA2), phơi nhiễm với bức xạ, tinh hoàn lạc chỗ (cryptorchidism), chấn thương tinh hoàn, hội chứng Klinefelter, rối loạn chức năng gan và chấn thương ngực.
Các dạng phổ biến nhất là ung thư biểu mô ống xâm lấn (invasive ductal carcinoma) (85% trường hợp), ung thư biểu mô nhú (papillary carcinoma) (5%) và ung thư hạch (lymphoma). Ít thường xuyên hơn, nó có thể biểu hiện dưới dạng một nang phức tạp hoặc một vùng biến dạng (distortion). Ung thư biểu mô nhú biểu hiện dưới dạng khối nang rắn hoặc phức tạp với thành dày chứa cả thành phần đặc và nang. Đối với ung thư hạch nguyên phát ở vú, nó có thể biểu hiện dưới dạng một khối đặc, hơi tròn, giảm âm với đường bờ không đều hoặc đa cung nhỏ (microlobulated). Những khối u này thường là tăng sinh mạch máu (hypervascular).
Khối u (Neoplasm): Siêu âm cho thấy một nốt đặc với nhân trung tâm lớn và đường bờ thâm nhiễm, không đều.
Có thể bạn quan tâm: Đặc điểm các khối ở vú trên siêu âm
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh