✴️ Siêu âm trong phụ khoa và sản khoa: Siêu âm đánh giá tử cung không mang thai (Phần 3)

BẤT THƯỜNG NỘI MẠC TỬ CUNG

Xuất Huyết Tử Cung Bất Thường

Xuất huyết tử cung bất thường (Abnormal Uterine Bleeding - AUB) là một thuật ngữ mô tả sự ra huyết âm đạo ngoài chu kỳ kinh có nguồn gốc từ tử cung ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. XHTCBT có lượng máu mất, thời gian, tần số và quy luật khác với chu kỳ kinh bình thường. Để chuẩn hóa việc chẩn đoán và điều trị XHTCBT, Tổ chức Sản phụ khoa Quốc tế (The International Federation of Gynecology and Obstetrics - FIGO) năm 2011 đã đưa ra một phân  loại  mới  của  XHTCBT  được  viết  tắt  là  PALM-COEIN  đại  diện  cho  polyps, adenomyosis (lạc nội mạc trong cơ tử cung), leiomyoma (u xơ tử cung), malignancy (bệnh ác tính) (tăng sản nội mạc tử cung-hyperplasia), coagulopathy (rối loạn đông máu), ovulatory dysfusion (rối loạn chức năng rụng trứng), endometrial iatrogenic (do điều trị) và not yet classification (chưa phân loại được) (28). Hiệp hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) đã ủng hộ áp dụng phân loại này trên tạp chí thực hành chẩn đoán XHTCBT ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản (29). Thuật ngữ XHTCBT do rối loạn chức năng (dysfunctional uterine bleeding) thường dùng để chỉ xuất huyết tử cung bất thường nên bỏ đi (28,29).

Việc đánh giá bệnh nhân XHTCBT nằm ngoài phạm vi của sách này nhưng thông thường bao gồm bệnh sử, khám lâm sàng, các xét nghiệm và hình ảnh học, sinh thiết nội mạc tử cung nếu có chỉ định, tùy thuộc vào độ tuổi của bệnh nhân có triệu chứng. Không đủ bằng chứng để khuyến cáo sử dụng siêu âm qua ngã âm đạo để đánh giá nội mạc tử cung dày ở phụ nữ XHTCBT trong độ tuổi sinh sản nếu không có các yếu tố nguy cơ của ung thư nội mạc tử cung (endometrial carcinoma). Siêu âm qua ngã âm đạo được dùng như một phương pháp sàng lọc giúp đánh giá lòng tử cung để phát hiện u xơ tử cung và polyp. Ở phụ nữ mãn kinh, siêu âm qua ngã âm đạo cho thấy nội mạc tử cung đồng dạng và mỏng từ 4mm trở xuống giúp loại trừ khả năng ác tính. Điều này sẽ được bàn sâu trong chương này.

Polyp Nội Mạc Và U Xơ Tử Cung Dưới Niêm

Tổn thương khu trú nội mạc tử cung thường gặp bao gồm polyp nội mạc và u xơ tử cung dưới niêm lần lượt chiếm khoảng 30% và 10% các trường hợp xuất huyết hậu mãn kinh (3). Siêu âm bơm nước buồng tử cung là một phương pháp chẩn đoán hình ảnh vượt trội so với siêu âm ngã âm đạo đơn thuần trong việc đánh giá các tổn thương nội mạc lòng tử cung như polyp (Hình 11.34) và u xơ tử cung (31). Hiệu quả của siêu âm bơm nước buồng tử cung trong chẩn đoán polyp nội mạc và u xơ tử cung dưới niêm đã được chứng minh tương đương với nội soi buồng tử cung trong nhiều nghiên cứu (32).

https://suckhoe.us/photos/174/ch%E1%BA%A9n%20%C4%91o%C3%A1n%20h%C3%ACnh%20%E1%BA%A3nh/SAsan/image496.jpg

Hình 11.34: Siêu âm bơm nước buồng tử cung qua ngã âm đạo với Doppler màu ở mặt cắt dọc giữa tử cung cho thấy một polyp nội mạc tử cung (dấu hoa thị). Lưu ý hồi âm của polyp cao hơn mô cơ tử cung.

Polyp nội mạc tử cung trên siêu âm bơm nước buồng tử cung có hồi âm cao hơn cơ tử cung xung quanh, nằm hoàn toàn trong buồng tử cung không lấn vào lớp cơ, có hồi âm đồng nhất với phần đáy hẹp dính với cơ tử cung (Hình 11.34). Siêu âm Doppler màu giúp xác định một cuống mạch máu nằm ở phần đáy của polyp trong đa số các trường hợp (Hình 11.35 và 11.36). Đôi khi có những biến đổi dạng nang bên trong polyp. Polyp cũng có thể xuất hiện ở đoạn eo của khoang nội mạc (Hình 11.36) và kênh cổ tử cung. U xơ tử cung dưới niêm mạc trên siêu âm bơm nước buồng tử cung có hồi âm thấp hơn cơ tử cung xung quanh, đáy rộng và đội nội mạc tử cung khi chúng phát triển vào khoang nội mạc với các mức độ khác nhau (Hình 11.37). U xơ tử cung dưới niêm mạc xuất phát từ lớp cơ tử cung dưới niêm mạc nên một phần u xơ tử cung kéo dài đến lớp cơ tử cung, đây là một đặc điểm phân biệt với polyp nội mạc tử cung. Một đặc điểm quan trọng khác để phân biệt với polyp nội mạc là u xơ tử cung dưới niêm thường có bóng lưng trên siêu âm (Hình 11.37). Bảng 11.8 liệt kê các đặc điểm phân biệt giữa polyp và u xơ dưới niêm. Mức độ phát triển của u xơ dưới niêm vào lòng tử cung có liên quan với lâm sàng. U xơ tử cung đội vào khoang nội mạc trên 50% cho phép nội soi buồng tử cung cắt u.

https://suckhoe.us/photos/174/ch%E1%BA%A9n%20%C4%91o%C3%A1n%20h%C3%ACnh%20%E1%BA%A3nh/SAsan/image497.jpg

Hình 11.35: Siêu âm qua ngã âm đạo với Doppler màu ở mặt cắt dọc giữa tử cung cho thấy một polyp nội mạc tử cung nhỏ (mũi tên). Lưu ý hồi âm của polyp cao hơn so với cơ tử cung và sự hiện diện của cuống mạch máu ( Vascular Pedicile) trên Doppler màu. Đáy tử cung (Fundus) được dán nhãn để định hướng hình ảnh.

https://suckhoe.us/photos/174/ch%E1%BA%A9n%20%C4%91o%C3%A1n%20h%C3%ACnh%20%E1%BA%A3nh/SAsan/image499.jpg

Hình 11.36: Siêu âm qua ngã âm đạo với Doppler màu ở mặt cắt dọc giữa tử cung cho thấy một polyp nội mạc tử cung (dấu hoa thị) ở đoạn eo của khoang nội mạc. Lưu ý sự hiện diện của cuốn mạch máu trên Doppler màu. Đáy tử cung (Fundus) được gắn nhãn để định hướng hình ảnh.

https://suckhoe.us/photos/174/ch%E1%BA%A9n%20%C4%91o%C3%A1n%20h%C3%ACnh%20%E1%BA%A3nh/SAsan/image501.jpg

Hình 11.37: Siêu âm qua ngã âm đạo với Doppler màu ở mặt cắt dọc giữa tử cung cho thấy một u xơ tử cung dưới niêm mạc (dấu hoa thị). Lưu ý hồi âm của u xơ tử cung dưới niêm tương đượng với cơ tử cung. Nội mạc tử cung bị đội lên (dấu bằng) bao quanh u xơ trong khoang nội mạc. Chú ý bóng lưng (shadow-mũi tên đứt đoạn) của u xơ tử cung. Đáy tử cung (Fundus) được gắn nhãn để định hướng hình ảnh.

BẢng 11.8: Các đặc điểm siêu âm giúp phân biệt Polyp nội mạc tử cung và u xơ tử cung dưới niêm mạc

Polyp nằm hoàn toàn trong khoang nội mạc tử cung trong khi u xơ tử cung kéo dài đến lớp  cơ tử cung

Độ hồi âm của polyp tương tự lớp nội mạc tử cung trong khi độ hồi âm của u xơ tử cung  tương tự cơ tử cung (kém hơn)

Polyp thường có một cuống mạch máu nhìn thấy được trên Doppler màu và cấu trúc echo đồng nhất

U xơ tử cung đội vào lớp nội mạc tử cung

U xơ tử cung thường có bóng lưng

 

Dính Lòng Tử Cung Và Sót Thai Sót Nhau

Một số bệnh lý khác của nội mạc có thể chẩn đoán bằng siêu âm bơm nước buồng tử cung bao gồm dính lòng tử cung (intrauterine adhesions) và sót thai sót nhau (retained products of conception-RPOC). Dính lòng tử cung thấy rõ trên siêu âm bơm nước buồng tử cung như một dải echo dày (kích thước dày hoặc mỏng) bám vào thành nội mạc (Hình 11.38). Siêu âm bơm nước buồng tử cung là phương tiện hình ảnh tốt nhất để chẩn đoán dính lòng tử cung (33) được cân nhắc ở những bệnh nhân có can thiệp dụng cụ vào buồng tử cung trước đó. Sót thai sót nhau có hình ảnh là một khối echo dày trong lòng tử cung (Hình 11.39). Thường gặp ở những phụ nữ sau phá thai, sẩy thai hoặc sau sanh.

https://suckhoe.us/photos/174/ch%E1%BA%A9n%20%C4%91o%C3%A1n%20h%C3%ACnh%20%E1%BA%A3nh/SAsan/image503.jpg

Hình 11.38: Siêu âm bơm nước buồng tử cung ở một bệnh nhân nghi ngờ có dính buồng tử cung. Lưu ý sự hiện diện của lớp màng mỏng trong mặt phẳng dọc (mũi tên A) và ngang (mũi tên B). Các mặt phẳng này có được từ siêu âm 3D thể tích.

https://suckhoe.us/photos/174/ch%E1%BA%A9n%20%C4%91o%C3%A1n%20h%C3%ACnh%20%E1%BA%A3nh/SAsan/image505.jpg

Hình 11.39: Siêu âm bơm nước buồng tử cung ở mặt phẳng dọc giữa cho thấy một khối echo dày (mũi tên) nghi ngờ sót thai hoặc sót nhau. Bệnh nhân này sanh khó 5 tuần trước.

Tăng Sản Nội Mạc Tử Cung Và Ung Thư

Ung thư nội mạc tử cung (endometrial cancer) là loại ung thư phụ khoa thường gặp nhất ở Mỹ với triệu chứng thường gặp nhất là xuất huyết âm đạo (34,35). Khi phụ nữ mãn kinh có xuất huyết âm đạo, cần tiếp cận một cách hệ thống để lọai trừ ung thư nội mạc tử cung và tăng sản nội mạc tử cung (hyperplasia). Nếu nội mạc tử cung dày từ 4mm trở xuống trên siêu âm qua ngã âm đạo ở phụ nữ xuất huyết hậu mãn kinh có thể giúp loại trừ ung thư nội mạc tử cung và không cần tiến hành các phương pháp đánh giá nội mạc sâu hơn. Do đó, siêu âm qua ngã âm đạo là phương pháp tiếp cận đầu tiên để đánh giá và theo dõi chảy máu sau mãn kinh. Nếu nội mạc tử cung dày trên 4mm, cần thực hiện những phương pháp đánh giá nội mạc tử cung sâu hơn bao gồm: sinh thiết nội mạc, siêu âm bơm nước buồng tử cung và nội soi buồng tử cung. Nếu sinh thiết nội mạc được thực hiện đầu tiên nhưng mẫu mô không đủ để chẩn đoán thì có thể kết hợp siêu âm qua ngã âm đạo và nếu nội mạc tử cung dày < 4mm thì không cần đánh giá thêm (36). Nội mạc tử cung dày > 4mm ở phụ nữ không triệu chứng không có ý nghĩa rõ ràng và không nên làm gì thêm nếu bệnh nhân không nằm trong nhóm nguy cơ cao ung thư nội mạc tử cung (37). Điều quan trọng cần lưu ý là chỉ nên đo độ dày nội mạc ở mặt phẳng dọc giữa tử cung (midsagital plane) với nội mạc từ vùng đáy đến vùng thân/cổ tử cung được quan sát rõ (Hình 11.13). Nếu không cắt được mặt phẳng này hoặc không thể quan sát rõ bề dày của nội mạc tử cung thì siêu âm qua ngã âm đạo không được dùng để đánh giá nội mạc ở phụ nữ xuất huyết hậu mãn kinh và phải thay thế bằng phương pháp khác. Giá trị của việc sử dụng siêu âm qua ngã âm đạo như một phương pháp sàng lọc ung thư nội mạc tử cung chưa được chứng minh vì vậy không nên áp dụng trên lâm sàng.

Tăng sản nội mạc tử cung (Hyperplasia) có thể lan tỏa hoặc khu trú. Trên siêu âm bơm nước buồng tử cung, tăng sản nội mạc lan tỏa biểu hiện là sự dày lên của nội mạc tử cung. Trong khi đó tăng sản nội mạc tử cung khu trú biểu hiện là một khối echo dày có đáy rộng nhưng không gây biến dạng vùng chuyển tiếp nội mạc-cơ tử cung. Đôi khi khó hẩn đoán phân biệt giữa tăng sản nội mạc tử cung khu trú và polyp nội mạc tử cung. Ung thư nội mạc tử cung có các đặc điểm siêu âm tương tự tăng sản nội mạc tử cung hoặc một polyp lớn, tuy nhiên ung thư có xâm lấn cơ tử cung và một số trường hợp có thể nhìn thấy trên siêu âm. Hình 11.40 đến 11.42 cho thấy hình ảnh siêu âm của ung thư nội mạc và tử cung.

https://suckhoe.us/photos/174/ch%E1%BA%A9n%20%C4%91o%C3%A1n%20h%C3%ACnh%20%E1%BA%A3nh/SAsan/image507.jpg

Hình 11.40: Siêu âm tử cung qua ngã âm đạo tử cung với mặt phẳng đứng dọc ở bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung. Lưu ý nội mạc tử cung dày và không đồng nhất (mũi tên).

https://suckhoe.us/photos/174/ch%E1%BA%A9n%20%C4%91o%C3%A1n%20h%C3%ACnh%20%E1%BA%A3nh/SAsan/image509.jpg

Hình 11.41: Siêu âm bơm nước buồng tử cung với mặt phẳng đứng dọc ở bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung. Lưu ý có nhiều chồi trong khoang nội mạc tử cung (mũi tên).

https://suckhoe.us/photos/174/ch%E1%BA%A9n%20%C4%91o%C3%A1n%20h%C3%ACnh%20%E1%BA%A3nh/SAsan/image511.jpg

Hình 11.42: Siêu âm bơm nước buồng tử cung với mặt phẳng đứng dọc ở bệnh nhân có khối u tử cung. Lưu ý bệnh học của khối hỗn hợp (mũi tên) là sarcoma tử cung

Dị Dạng Động Tĩnh Mạch

Dị dạng động tĩnh mạch tử cung (AVM-ateriovenous malformations) khi có sự thông nối trực tiếp giữa hệ thống động mạch và tĩnh mạch tử cung và là một bất thường hiếm gặp. Thường xảy ra sau các can thiệp dụng cụ vào buồng tử cung (hay gặp trong sẩy thai hoặc sanh non). Đôi khi, chúng có liên quan đến bệnh lý ác tính, nhiễm trùng hoặc sót thai sót nhau trong thai trứng (38,39). AVM cũng có thể bẩm sinh, dạng nảy ít gặp hơn và ít triệu chứng hơn dạng mắc phải (40).

Biểu hiện lâm sàng thường gặp của AVM là xuất huyết âm đạo nhiều ở bệnh nhân có can thiệp dụng cụ vào buồng tử cung sau khi mang thai. Các triệu chứng khác ít gặp hơn bao gồm đau vùng chậu (pelvic pain) và đau khi giao hợp (dyspareunia). Chẩn đoán AVM tốt nhất qua siêu âm ngã âm đạo với Doppler màu hoặc Doppler xung. Trên siêu âm thang xám, AVM là những vùng phản âm trống (anechoic), bờ không đều, thường nằm trong cơ tử cung gần vùng chuyển tiếp với nội mạc tử cung (Hình 11.43). Trên siêu âm Doppler màu cho hình ảnh dòng chảy xoáy (turbulent flow) bên trong những vùng phản âm trống (Hình 11.44) và Doppler xung cho thấy dòng chảy có vận tốc cao, trở kháng thấp (Figure 11.45). Siêu âm Doppler màu và Doppler xung hữu ích trong việc chẩn đoán AVM và giúp phân biệt với giả phình mạch (pseudoaneurysm). Giả phình mạch cũng có thể xuất hiện sau can thiệp dụng cụ vào buồng tử cung, có dòng máu xoáy bên trong động mạch, có vận tốc cao và trở kháng cao trên siêu âm Doppler màu và Doppler xung (41).

https://suckhoe.us/photos/174/ch%E1%BA%A9n%20%C4%91o%C3%A1n%20h%C3%ACnh%20%E1%BA%A3nh/SAsan/image513.jpg

Hình 11.43: Siêu âm qua ngã âm đạo ở mặt cắt dọc tử cung cho thấy dị dạng động tĩnh mạch (AVM-ateriovenous malformations) (mũi tên). Lưu ý hình ảnh siêu âm của AVM là những vùng echo trống có bờ không đều nằm trong cơ tử cung gần vùng chuyển tiếp với nội mạc tử cung.

https://suckhoe.us/photos/174/ch%E1%BA%A9n%20%C4%91o%C3%A1n%20h%C3%ACnh%20%E1%BA%A3nh/SAsan/image515.jpg

Hình 11.44: Siêu âm Doppler màu qua ngã âm đạo ở mặt cắt dọc tử cung dị dạng động tĩnh mạch ở Hình 11.43 (mũi tên). Lưu ý sự hiện diện của dòng máu xoáy bên trong AVM.

https://suckhoe.us/photos/174/ch%E1%BA%A9n%20%C4%91o%C3%A1n%20h%C3%ACnh%20%E1%BA%A3nh/SAsan/image517.jpg

Hình 11.45: Siêu âm qua ngã âm đạo phổ Doppler màu và Doppler xung ở mặt cắt dọc tử cung dị dạng động tĩnh mạch ở Hình 11.43 (mũi tên). Lưu ý dạng sóng dòng chảy có trở kháng thấp, vận tốc cao (100 cm/giây).

AVM nên được điều trị bảo tồn nếu bệnh nhân không ra máu nhiều và tình trạng thiếu máu không đáng kể. Theo kinh nghiệm của chúng tôi và một số chuyên gia khác đề nghị điều trị bảo tồn bệnh nhân có AVM với thời gian từ 2 – 5 tháng (42). Thuyên tắc động mạch qua catheter là phương pháp được ưa chuộng nếu điều trị bảo tồn thất bại hoặc trong trường hợp ra máu nhiều. Thuyên tắc động mạch qua catheter được báo cáo thành công với tỷ lệ 50 – 70% (43). Tiên lượng lâu dài tốt (khả năng có thai) ở những phụ nữ AVM thoái triển sau điều trị bảo tồn hoặc thuyên tắc động mạch (44).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

AIUM practice guideline for the performance of pelvic ultrasound examinations. American Institute of Ultrasound in Medicine. J Ultrasound Med. 2010;29 (1):166-72.

AIUM practice guideline for ultrasonography in reproductive medicine. American Institute of Ultrasound in Medicine; Society for Reproductive Endocrinology and Infertility; American Society of Reproductive Medicine. J Ultrasound Med. 2009;28(1):128-37.

Bonnamy L, Marret H, Perrotin F, Body G, Berger C, Lansac J. Sonohysterography: a prospective survey of results and complications in 81 patients. Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol 2002;102:42-47.

Merz E, Miric-Tesanic D, Bahlmann F, Weber G, Wellek S. Sonographic size of uterus and ovaries in pre- and postmenopausal women. Ultrasound Obstet Gynecol. 1996;7(1):38-42.

Fleischer AC, Kalemeris GC, Entman SS. Sonographic depiction of the endometrium during normal cycles.  Ultrasound Med Biol. 1986;12(4):271-7.

Santolaya-Forgas J. Physiology of the menstrual cycle by ultrasonography. J Ultrasound Med. 1992;11(4):139-42.

Duijkers IJ, Klipping C.Ultrasonographic assessment of endocervix and cervical mucus in ovulatory menstrual cycles. Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol. 2000;93(1):13-7.

R Azziz. Adenomyosis: current perspectives. Obstet Gynecol Clin North Am 1989;16:221-35.

Sakhel K, Abuhamad A. Sonography of Adenomyosis. J Ultrasound Med 2012 May;31(5):805-8.

Botsis D, Kassanos D, Antoniou G, Pyrgiotis E, Karakitsos P, Kalogirou D. Adenomyoma and leiomyoma: differential diagnosis with transvaginal sonography. J Clin Ultrasound. 1998;26(1):21-5.

Chiang CH, Chang MY, Hsu JJ. Tumor vascular pattern and blood flow impedance in the differential diagnosis of leiomyoma and adenomyosis by color Doppler sonography. J Assist Reprod Genet. 1999;16(5):268-75.

Acien P, Acien M, Sanchez-Ferrer ML. Complex malformations of the female genital tract. New types and revision of classification. Hum Reprod 2004; 19:2377-2384

Raga F, Bauset C, Remohi J, Bonilla-Musoles F, Simon C, Pellicer A. Reproductive impact of congenital Mullerian anomalies. Hum Reprod 1997;12(10):2277-2281

Rock JA and Schlaff WD. The obstetric consequences of uterovaginal anomalies. Fertil Steril 1985; 43:681

Ludmir J, Samuels P, Brooks S. Pregnancy outcome of patients with uncorrected uterine anomalies managed in a high risk obstetric setting. Obstet Gynecol 1990; 75:906

The American Fertility Society. The American Fertility Society classifications on adnexal adhesions, distal tubal occlusion, tubal occlusion secondary to tubal ligation, tubal pregnancies, Mullerian anomalies and intrauterine adhesions. Fertil Steril 1988;49:944-955.

Pellerito JS,McCarthy SM, Doyle MB, Glickman MG, DeCherney AH. Diagnosis of uterine anomalies: relative accuracy of MR imaging, endovaginal ultrasound, and hysterosalpingography. Radiology 1992; 183:795-800.

Bocca SM, Abuhamad AZ. Use of 3-dimensional sonography to assess uterine anomalies. J Ultrasound in Medicine2013;32:1.

Randolph J, Ying Y, Maier D, Schmidt C, Riddick D. Comparison of real time ultrasonography, hysterosalpingography, and laparoscopy/hysteroscopy in the evaluation of uterine abnormalities and tubal patency. Fertil Steril 1986; 5:828-832.

Salim R, Woelfer B, Backos M, Regan L, Jurkovic D. Reproducibility of three- dimensional ultrasound diagnosis of congenital uterine anomalies.Ultrasound Obstet Gynecol 2003; 21:578–582.

Abuhamad A, Singleton S, Zhao Y, Bocca S. The Z technique: an easy approach to the display of the mid-coronal plane of the uterus in volume sonography. J Ultrasound Med 2006; 25:607-612.

Deutch T, Bocca S, Oehninger S, et al. Magnetic resonance imaging versus three- dimensional transvaginal ultrasound for the diagnosis of Mullerian anomalies. Fertil Steril 2006;86:S308

Bocca S, Abuhamad A. Use of 3-Dimensional Sonography to Assess Uterine Anomalies.  J Ultrasound Med 2013;32:1-6.

Deutch TD, Abuhamad AZ. The role of 3-dimensional ultrasonography and magnetic resonance imaging tin the diagnosis of mullerian duct anomalies: a review of the literature. J Ultrasound Med 2008;27(3):413-23.

Bocca SM, Oehninger S, Stadtmauer L, Agard J, Duran H, Sarhan A, Horton S,

Abuhamad A. Prospective study to evaluate the costs, accuracy, risks and benefits of 3D ultrasound compared to other imaging modalities in women with intrauterine lesions. J Ultrasound Med 2012;31:81-85.

Baird DD, Dunson DB, Hill MC, Cousins D, Schectman JM. High cumulative incidence of uterine leiomyoma in black and white women: ultrasound evidence. Am J Obstet Gynecol 2003;188:100-7.

Catherino WH, Parrott E, Segars J. Proceedings from the National Institute of Child

Health and Human Development conference on the Uterine Fibroid Research Update Workshop. Fertil Steril 2011;95:9-12

Munro MG, Critchley HO, Broder MS, Fraser IS. FIGO classification system (PALM-COEIN) for causes of abnormal uterine bleeding in nongravid women of reproductive age. FIGO Working Group on Menstrual Disorders. Int J Gynaecol Obstet 2011;113:3–13.

ACOG Practice Bulletin on Diagnosis of Abnormal Uterine Bleeding in Reproductive-Aged Women. Number 128, July 2012.

N O’Connoll LP, Fries MH, Aeringue E, Brehm W. Triage of abnormal postmenopausal bleeding: a comparison of endometrial biopsy and transvaginal sonohysterography versus fractional curettage with hysteroscopy. Am J Obstet Gynecol 1998;178:956-61.

Schwarzler P, Concin H, Bosch H, Berlinger A, Wohlgenannt K, Collins WP, et al. An evaluation of sonohysterography and diagnostic hysteroscopy for the assessment of

Kelekci S, Kaya E, Alan M, Alan Y, Bilge U, Mollamahmutoglu L. Comparison of transvaginal sonography, saline infusion sonography, and office hysteronscopy in reproductive-aged women with or without abnormal uterine bleeding. Fertil Steril 2005;84:682–6.

Soares SR, Barbosa dos Reis MM, Camargos AF, Diagnostic accuracy of sonohysterography, transvaginal sonography, and hysterosalpingography in patients with uterine cavity diseases. Fertil Steril 2000;73:406-11.

American Cancer Society: Cancer Facts and Figures 2008. Atlanta, Georgia ACS: 2008. www.cancer.org/STT/2008CAFFFinalSecured.pdf

Goldstein RB, Bree RL, Benson CB, Benacerraf BR, Bloss JD, Carlos R et al.

Evaluation of the woman with postmenopausal bleeding. Society of Radiologists in

Ultrasound-Sponsored consensus conference statement. J Ultrasound Med 2001;20:1025-36

Bakour SH, Khan KS, Gupta JK. Controlled analysis of factors associated with insufficient samples on outpatient endometrial biopsy. BJOG 2000; 107:1312-4.

Fleischer AC, Wheeler JE, Lindsay I, Hendrix SL, Grabill S, Kravitz B. An assessment of the value of ultrasonographic screening for endometrial disease in postmenopausal women without symptoms. A J Obstet Gynecol 2001; 184:70-5.

Kwon JH, Kim GS. Obstetric iatrogenic arterial injuries of the uterus: diagnosis with US and treatment with transcatheter arterial embolization. Radiographics 2002; 22:35–46.

Yahi-Mountasser H, Collinet P, Nayama M, Boukerrou M, Robert Y, Deruelle P. Les malformations artério-veineuses intra-utérines. À propos de 4 cas. J Gynecol Obstet Biol Reprod (Paris) 2006; 35:614–20.

Bauer V, Briex M, De Meeus JB, Drouineau J, Ferrie JC, Magnin G. Malformation artérioveineuse congénitale de l’artère iliaque interne découverte au cours de la grossesse. J Gynecol Obstet Biol Reprod (Paris) 1993; 22:312–6.

S. Sanguin, S. Lanta-Delmas, A. Le Blanche, E. Grardel-Chambenoit, P. Merviel, J. Gondry, R. Fauvet. Diagnostic et traitement des malformations artério-veineuses utérines (MAVU) en 2011

Timmerman D, Van Den Bosch T, Peeraer K, Debrouwere E, Van Schoubroeck D, Stockx L, et al. Vascular malformations in the uterus: ultrasonographic diagnosis and conservative management. Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol 2000; 92:171–8.

Kwon JH, Kim GS,: Obstetric iatrogenic arterial injuries of the uterus: Diagnosis with US and treatment with transcatheter arterial embolization. Radiographics 2002;22:35.

Delotte J, Chevallier P, Benoit B, Castillon JM, Bongain A. Pregnancy after embolization therapy for uterine arteriovenous malformation. Fertil Steril 2006;85:228.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top