Nấm xuất hiện ở xung quanh chúng ta. Chúng có thể sống trong đất, cũng có thể phát triển trên cơ thể chúng ta. Chúng tạo ra hàng triệu bào tử mà chúng ta hít vào và thở ra trong từng nhịp thở. Trong số hàng triệu loại nấm, chỉ có vài trăm loại có thể lây nhiễm sang người. Và những người có hệ thống miễn dịch khỏe mạnh sẽ dễ dàng chống lại sự lây nhiễm này, điều này làm cho nhiễm nấm toàn thân thường rất hiếm. Tuy nhiên, khi chúng thực sự tấn công được, nhiễm nấm toàn thân sẽ trở nên đặc biệt nguy hiểm, chúng có thể tấn công các cơ quan nội tạng, bao gồm não, tim và phổi. Theo ghi nhận của Quỹ Hành động Toàn cầu về Nhiễm nấm (GAFFI), nhiễm nấm toàn thân có tỷ lệ tử vong cao bất thường, khoảng 15 đến 50%, và giết chết hơn 1 triệu người mỗi năm.
Nhiễm nấm có xu hướng tấn công những người có hệ thống miễn dịch bị tổn thương. Và thực tế, nhóm người này đang ngày càng phổ biến trong các thập kỷ gần đây. Điều này là bởi vì càng ngày càng có nhiều loại thuốc giúp con người kéo dài sự sống, nhưng cái giá phải trả chính là sự suy yếu của hệ thống miễn dịch. Những loại thuốc này thường bao gồm một số liệu pháp hóa trị ung thư và thuốc ngăn cơ thể từ chối cấy ghép nội tạng.
Để điều trị nhiễm nấm, hiện nay các bác sĩ chỉ có bốn loại thuốc ít ỏi để lựa chọn, và nấm đã trở nên nhanh chóng kháng lại tất cả chúng. Chúng ta đang ngày càng mở rộng nhóm bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh nhiễm nấm, nhưng lại không làm được gì để cải thiện các hệ quả mà chúng đem lại. Trong 40 năm qua, không có một mảng y học nào đạt được ít tiến bộ hơn mảng điều trị các bệnh nhiễm do nấm.
Nhiều loại thuốc ngăn chặn sự phát triển của nấm thay vì giết chết chúng. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta đang thực sự cung cấp nhiều lựa chọn phong phú để nấm phát triển sức đề kháng. Với quá ít loại thuốc, các bác sĩ đã lo ngại về sự gia tăng số lượng trường hợp nhiễm nấm kháng thuốc – cả ở người khỏe mạnh cũng như người bệnh.
Việc tạo ra một hợp chất chống nấm hoạt động tốt là rất khó vì người và nấm có quan hệ mật thiết với nhau. Cả hai đều là sinh vật nhân thực và chia sẻ nhiều con đường sinh học giống nhau. Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy các hợp chất chống nấm, vấn đề là chúng sẽ giết chết bệnh nhân trước khi nấm được loại bỏ. Việc khai thác một số điểm khác biệt giữa người và nấm để phát triển thuốc chống nấm cũng đã được thực hiện, chẳng hạn như nấm có thành tế bào, trong khi tế bào người thì không, hay màng tế bào nấm chứa Ergosterol, trong khi màng tế bào người sử dụng Cholesterol. Tuy nhiên, những khác biệt này thường rất nhỏ và thực sự không có nhiều mục tiêu lựa chọn mà có thể khai thác từ góc nhìn phát triển thuốc chống nấm. Đây cũng là lý do chính giải thích cho việc tại sao kho vũ khí thuốc điều trị nhiễm nấm mà chúng ta hiện có vẫn còn rất ít.
Nếu muốn cải thiện kho vũ khí này cũng như khắc phục tình trạng kháng thuốc, chúng ta cần phải tìm kiếm các mục tiêu mới. Nên có các loại thuốc với một số cơ chế hoạt động khác nhau, được sử dụng trong dự phòng hoặc điều trị, hoặc cả hai, để điều trị các bệnh nhiễm nấm.
Các thách thức phải đối mặt
Trong khi các bác sĩ và nhà khoa học đang háo hức chờ đợi nhiều loại thuốc chống nấm được chấp thuận hơn, thì các công ty dược phẩm đã lưu ý rằng việc có được một loại thuốc kháng nấm thông qua các thử nghiệm lâm sàng là rất khó khăn và không đảm bảo thành công về mặt thương mại.
Một trong những thách thức lớn nhất đối với các thử nghiệm lâm sàng về thuốc kháng nấm là những người bị nhiễm nấm vốn dĩ đã ốm quá nặng. Họ thường mang nhiều căn bệnh tiềm ẩn do trải qua các đợt điều trị kéo dài và phải nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt của bệnh viện. Vì vậy, khó có thể phân biệt được liệu một bệnh nhân chết là do thuốc không có tác dụng kháng nấm hay là do căn bệnh tiềm ẩn đã phát triển quá nặng. Bên cạnh đó, vì bệnh nhân quá ốm nên việc nhận được sự đồng ý của họ để đăng ký thử nghiệm lâm sàng thường rất khó khăn. Ngoài ra, các bác sĩ thường cho bệnh nhân sử dụng thuốc kháng nấm đã được phê duyệt ngay khi họ nghi ngờ bệnh nhân bị nhiễm nấm vì việc trì hoãn điều trị kháng nấm có thể khiến bệnh nhân tăng nguy cơ tử vong. Tuy nhiên, việc thử nghiệm một loại thuốc kháng nấm mới sau khi bệnh nhân sử dụng một loại thuốc đã được phê duyệt trước đó sẽ cho kết quả thiếu chính xác. Thêm nữa, phải mất khoảng 72 giờ để nuôi cấy nấm từ máu. Và cần kết quả của môi trường nuôi cấy đó để đăng ký một người vào thử nghiệm lâm sàng. Kết quả là phải đăng ký một bệnh nhân vào thử nghiệm lâm sàng vào cùng ngày mà kết quả cấy máu cho kết quả dương tính. Điều này là một thách thức về mặt hậu cần nhưng cũng có nghĩa là ứng cử viên thuốc đang được thử nghiệm muộn trong quá trình lây nhiễm.
Yếu tố thương mại cũng kìm hãm sự phát triển của thuốc chống nấm do nhiều nhà đầu tư và công ty không thấy nó mang lại lợi nhuận. Chỉ có một số lượng tương đối nhỏ người cần thuốc kháng nấm và họ thường chỉ dùng thuốc trong một thời gian ngắn, điều này giới hạn số tiền mà một công ty có thể kiếm được.
Nếu không có những nguồn tài trợ, các nhà khoa học lo lắng rằng việc phát triển thuốc chống nấm sẽ không phải là một ưu tiên hàng đầu. Theo Tiến sĩ Dược sĩ Lopez-Ribot tại Đại học Texas, San Antonio: “Đối với chúng tôi, những người đã tham gia vào lĩnh vực bệnh truyền nhiễm, bạn sẽ cảm thấy rằng chúng tôi là những người ít được chú ý”. Ông tự hỏi rằng Liệu đại dịch COVID-19 có thể khiến các công ty dược phẩm, cơ quan tài trợ và công chúng nghĩ lại và đầu tư thêm vào phát triển các liệu pháp điều trị bệnh truyền nhiễm, bao gồm cả nhiễm nấm, hay không? Ông nói: “Chúng ta có cảm giác sai lầm rằng chúng ta đã chiến thắng bệnh truyền nhiễm với kỷ nguyên kháng sinh. Tuy nhiên, đại dịch này lại đang nhắc nhở chúng ta rằng bệnh truyền nhiễm là loại bệnh thực sự có thể quét sạch tất cả.”
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Bệnh viện Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh